Ngày 27/5/2025, Tòa án tỉnh xét xử vụ án hành chính sơ thẩm về “Khiếu kiện quyết định hành chính”, giữa người khởi kiện ông Bùi Hữu C; Địa chỉ: Đội 7, thôn Minh Thành, xã Lai Vu, huyện Kim Thành với người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Tăng Thị T; Địa chỉ: Đội 1, thôn Quyết Tâm, xã Lai Vu, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương;
Theo đơn khởi kiện của ông C, lời khai của C trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa trình bày: Nguồn gốc thửa đất số 62, tờ bản đồ số 3, diện tích 584m2 tại thôn Quyết Tâm, xã Lai Khê, huyện Kim Thành có nguồn gốc do ông cha để lại. Theo sổ đăng ký ruộng đất do xã Lai Vu, huyện Kim Môn (nay là Kim Thành) lưu giữ lập năm 1985 thể hiện tại trang 15, số thửa 48, tờ bản đồ số 01, chủ SDĐ T, diện tích 513m2, loại đất T55; Sổ mục kê năm 1993 thể hiện số thửa số 57, tờ bản đồ số 6, chủ SDĐ bà T, diện tích 558m2, loại đất T; Hồ sơ cấp GCNQSDĐ năm 2003, bà T được cấp GCNQSDĐ đại trà, tại trang 60, sổ địa chính xã ngày 01/6/2003: Ngày 16/9/2003 bà T được cấp GCNQSDĐ tại thửa số 57, tờ bản đồ số 6, chủ SDĐ bà T, diện tích 558m2. Trong đó có 300m2 đất ở (lâu dài), 142m2 đất trồng cây hàng năm (thời hạn 15/10/2013), 116 m2 vườn thừa, vượt mức quy định đất ở (thời hạn lâu dài) theo Quyết định số 478/QĐ-UB ngày 16/9/2003 đến ngày 26/5/2020 bà T được cấp đổi GCNQSDĐ tại thửa số 62, tờ bản đồ số 3, diện tích 584m2. Loại đất ở, số vào sổ CH00925 (trang 153 sổ địa chính xã ngày 01/6/2004);
UBND huyện Kim Thành cấp GCNQSDĐ lần đầu cho bà T năm 2003 là không đúng quy định của tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định “Cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất”.
Yêu cầu khởi kiện của ông C, đề nghị Tòa án giải quyết: Hủy GCNQSDĐ số CH00925, ngày vào sổ 26/05/2020, tờ bản đồ số 03, thửa đất số 62 có diện tích 584m2 đất ở lâu dài, tại vị trí Đội 1, thôn Quyết Tâm, xã Lai Vu, huyện Kim Thành (nay là xã Lai Khê) do UBND huyện Kim Thành cấp cho bà Tăng Thị T.
Như vậy, để đánh giá tính hợp pháp của GCNQSDĐ năm 2020 của bà T thì cần xem xét, đánh giá tính hợp pháp của GCNQSDĐ năm 2003 do UBND huyện Kim Thành đã cấp cho bà T:
+ Về thẩm quyền ban hành: Căn cứ khoản 2 Điều 52 Luật đất đai năm 2003, UBND huyện Kim Thành cấp GCNQSDĐ cho bà T là đúng thẩm quyền.
+ Về trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ: UBND huyện Kim Thành và UBND xã Lai Vu không còn lưu trữ được hồ sơ cấp GCNQSDĐ lần đầu năm 2003 cho bà T. Tuy nhiên, UBND xã Lai Vu xác định năm 2003, bà T được cấp GCNQSDĐ đại trà và UBND xã chỉ còn lưu sổ theo dõi cấp GCNQSDĐ. Tại trang 60 Sổ địa chính xã ngày 01/5/2004, thể hiện: Chủ sử dụng đất là bà Tăng Thị Tân được cấp GCNQSDD tại thửa số 57, tờ bản đồ số 06 diện tích 558m2 trong đó: 300m2 đất ở (thời hạn sử dụng lâu dài), 142m2 đất trồng cây hàng năm (thời hạn sử dụng 15/10/2013), 116 m2 vườn thừa vượt quy định hạn mức đất ở (thời hạn sử dụng lâu dài). Căn cứ Quyết định số 488-QĐUB ngày 16/9/2003, vào sổ GCN số 564. Như vậy, hồ sơ cấp GCNQSDĐ không đảm bảo các tài liệu theo quy định của pháp luật. Bởi lẽ:
- Đất không có một trong các loại giấy tờ theo quy định khoản 1 Điều 50;
- Năm 1985 vợ chồng ông C bà T ly hôn nhưng chưa chia tài sản là QSDĐ. Như vậy, không thể xác nhận đây là đất không có tranh chấp.
Mặt khác, Quyết định công nhận thuận tình ly hôn ngày 03/12/1985 đối với vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 113 ngày 01/11/1985 giữa anh C lúc đó 32 tuổi, chị T 30 tuổi. Quyết định về quan hệ vợ chồng: Công nhận thuận tình ly hôn ngày 03/12/1985 Tòa án chỉ giải quyết về con chung, tài sản chung: Chị T sở hữu một gian nhà trên phía buồng, một nhà bếp, một chuồng lợn đều xây, một bờ ao + một bờ lũy xây, một hòm đựng thóc, một giường một, một giường đôi, một chăn bông, một màn và những dụng cụ sinh hoạt trong gia đình. Chấp nhận sự thỏa thuận của đôi bên đương sự là hai gian nhà còn lại cho cháu T. Ngoài ra Quyết định còn tuyên về án phí;
Tòa án đã xác minh xác định TAND huyện Kim Thành có việc thụ lý, giải quyết việc ly hôn giữa ông C và bà Tân: thụ lý số 113 ngày 01/11/1985. Nội dung giải quyết ba mối quan hệ: Vợ chồng, con chung, tài sản chung, theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn thì ông C sở hữu 01 căn nhà 02 gian; bà T sở hữu 01 gian nhà trên phía buồng, 01 nhà bếp, 01 chuồng lợn, 01 bờ ao, 01 bờ lũy xây, 02 gian nhà còn lại cho cháu T. Như vậy, năm 1985, ông C và bà T đã ly hôn nhưng TAND huyện Kim Thành không lưu giữ hồ sơ mà chỉ lưu giữ được sổ kết quả. Ông C và bà T không lưu giữ được Quyết định của Tòa án. Theo sổ theo dõi kết quả của TAND huyện Kim Thành thì khi ly hôn ông C và bà T có thoả thuận về phân chia tài sản là nhà trên diện tích đất. Nhưng quyết định không ghi cụ thể công trình các bên thỏa thuận chia trên diện tích đất là bao nhiêu. Hồ sơ do UBND xã Lai Vu (nay là Lai Khê) lưu giữ thể hiện tại sổ mục kê năm 1985, 1993 ghi tên bà T nhưng không có tài liệu nào thể hiện sau khi ông C và bà T ly hôn ông C để lại toàn bộ thửa đất cho bà T.

Kiểm sát viên tham gia xét hỏi tại phiên tòa ngày 27/5/2025
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện UBND huyện Kim Thành ông Nguyễn Hữu Hưng – Phó Chủ tịch, trình bày: UBND huyện Kim Thành đã kiểm tra hồ sơ lưu trữ. Nhưng tìm thấy hồ sơ lưu trữ về việc cấp GCNQSDĐ cho bà Tăng Thị T tại thửa đất số 62, tờ bản đồ số 03, có diện tích 584,0m2 tại thôn Quyết Tâm, xã Lai Vu, huyện Kim Thành (nay là xã Lai Khê) huyện Kim Thành là đúng hay sai. Hồ sơ lưu trữ tại UBND xã Lai khê, cung cấp cho Tòa án các giấy tờ, tài liệu như: Trích lục Mảnh bản đồ, hồ sơ kỹ thuật thửa đất và Mục kê đo vẽ năm 2009 (tại thửa đất số 62, tờ bản đồ số 03) mang tên bà Tăng Thị T; Mảnh bản đồ, trang sổ mục kê năm 1993 (tại thửa đất số 57, tờ bản đồ số 06), diện tích 584,0m2 (Loại đất T) và Mảnh bản đồ, trang sổ mục kê 299 (đo vẽ năm 1985 (tại thửa đất số 418, tờ bản đồ số 01), diện tích 513,0 m2 (Loại đất T) mang tên bà T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Tăng Thị T khai: ông C khởi kiện. Trước đây, bà và ông C là vợ chồng đến năm 1985 thì ly hôn. Nguồn gốc thửa đất hiện nay bà đang sinh sống là của bố mẹ đẻ ông C để lại cho vợ, chồng bà. Sau khi ly hôn ông C không sinh sống trên thửa đất nữa, từ đó bà và các con sống trên thửa đất cho đến nay. Nay ông C khởi kiện yêu cầu hủy GCNQSDĐ bà không đồng ý vì bà đã được cấp GCNQSDĐ lần đầu năm 2003 và đến năm 2020 bà được cấp đổi GCNQSDĐ. Bà xác định khi ly hôn bà và ông C đã thỏa thuận với nhau nên Nhà nước đã để tên bà trong sổ mục kê từ năm 1985 đến nay bà vẫn quản lý, sử dụng, đóng thuế đầy đủ, không có tranh chấp với ai.
Căn cứ các tài liệu chứng cứ được thẩm tra, công khai bằng hình ảnh và kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã phát biểu quan điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Hữu C: Huỷ GCNQSDĐ số 564 ngày 16/9/2003 và GCNQSDĐ số CH00925 ngày 26/5/2020 do UBND huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương đã cấp cho bà Tăng Thị T đối với thửa đất số 62, tờ bản đồ số 3, diện tích 584 m2, địa chỉ: Thôn Quyết Tâm, xã Lai Vu, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
Về án phí sơ thẩm: UBND huyện Kim Thành phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
Sau khi xem xét một cách toàn diện nội dung vụ án, ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Hữu C.
Hoàng Anh Tuấn
Phòng 10 VKSND tỉnh Hải Dương