Vừa qua, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đưa ra xét xử vụ án dân sự: Kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất, tháo dỡ tài sản trên đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Một thửa đất, tờ bản đồ, một diện tích được cấp giấy chứng nhận mang tên hai người, cùng ngày tháng năm cấp.
Ảnh phiên tòa Dân sự sơ thẩm
Nội dung vụ án: Cụ Phạm Quý Đ và cụ Bùi Thị Ph có diện tích đất khoảng 650m2 ở thôn Thanh Xá, xã Liên Hồng, huyện GL (nay là thành phố HD). Khi ông G kết hôn với bà T, vợ chồng ông sống cùng nhà với các cụ. Năm 1985, cụ Đ và cụ Ph xây cho vợ chồng ông 01 căn nhà cấp 4 trên một phần thửa đất của các cụ để vợ chồng ông ở riêng, đến năm 1986, các cụ tặng cho vợ chồng ông diện tích 176m2 đất (phần đất có ngôi nhà cấp 4 đã xây) và tặng cho vợ chồng ông Ng diện tích 286m2, phần còn lại cụ Đ và cụ Ph vẫn sử dụng. Từ khi được xây nhà và tách cho đất, vợ chồng ông vẫn sinh sống trên nhà đất đó. Ngày 18/01/1993, ba bố con ông (gồm ông, cụ Đ và ông Ng ) được UBND tỉnh HH cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thửa đất của vợ chồng ông là thửa 159, tờ bản đồ số 03, diện tích 176m2, cụ Đ là thửa 160, diện tích 186m2, của ông Ng là thửa 161, diện tích 286m2, các GCNQSD đất đều đóng dấu chữ ký của chủ tịch “Nguyễn Du”. Thời điểm đó ông Phạm Quý C (là em trai ông) vẫn sống cùng nhà với các cụ. Cụ Đế là người đi làm GCNQSD đất cho cả ba bố con nên thủ tục cấp giấy cụ thể như thế nào ông không biết.
Tháng 11/1993, vợ chồng ông mua của UBND xã LH được một thửa đất khác (cách đất vợ chồng ông đang sống khoảng 1km) nên đã làm nhà và chuyển ra đất mới sống, ông phá nhà cũ đi và nhờ mẹ là cụ Bùi Thị Ph trông nom đất. Năm 1995, anh trai ông là Phạm Quý Gh từ miền Nam về không có chỗ ở nên ông đã cho ông Gh làm nhà ở nhờ trên đất của mình, đồng thời ông C hỏi mượn ông khoảng 50m2 đất để làm máy xay xát, ông cũng nhất trí. Việc ông C hỏi mượn đất chỉ nó miệng (có ông Gh làm chứng) chứ không lập văn bản giấy tờ. Ông đã đưa cho ông Gh giữ GCNQSD đất đối với thửa đất số 159 của vợ chồng ông.
Năm 2001, UBND xã Liên Hồng thông báo nộp lại GCNQSD đất do UBND tỉnh Hải Hưng cấp để UBND huyện GL xác nhận lại trang 3 nên ông đã lấy GCNQSD đất từ ông Gh để làm thủ tục xác nhận lại trang 3 theo quy định của pháp luật.
Năm 2017, ông đã mang GCNQSD đất đối với thửa đất 159 đi cầm cố vay tiền (vay lãi ngoài). Trước khi cầm cố giấy, ông đã phô tô chứng thực lại 01 bản để giữ. Sau đó ông đã trả được nợ và lấy lại GCNQSDĐ (bản chính) về nhưng trên đường về ông đã làm rơi mất bản chính, chỉ còn bản phô tô chứng thực.
Đến năm 2019, ông có nhu cầu sử dụng đất và yêu cầu ông C phải trả lại ông 50m2 đất đã mượn nhưng ông C không trả. Sau đó, ông phát hiện ra ông C cũng có GCNQSD đất cùng số thửa, diện tích, tờ bản đồ, vị trí, ngày tháng năm cấp giấy như của ông.
Do đó, ông G khởi kiện đề nghị Tòa án: Xác nhận thửa đất số 159, tờ bản đồ 3, diện tích đất là 176m2, thực tế đo đạc là 158,2m là của vợ chồng ông; Buộc ông Phạm Quý C phải tháo dỡ các tài sản trên phần đất 52,9m2 đất và trả lại đất cho vợ chồng ông; Hủy GCNQSD đất số D 0024896 do UBND tỉnh Hải Hưng cấp ngày 18/01/1993 (đã được UBND huyện GL hợp pháp hóa tại trang 3) của ông Phạm Quý C.
Kiểm sát viên tham gia phiên Tòa nhận định về hướng giải quyết vụ án: Ông G và ông C đều cho rằng bố mẹ ông đã tặng cho các ông thửa đất số 159. Xem xét việc tặng cho đất của cụ Đ, cụ Ph cho vợ chồng ông Phạm Quý G, thấy: Việc tặng cho đất giữa cụ Đ, cụ Ph và ông G không lập thành văn bản nhưng bản thân cụ Vũ Thị Ph và những người thừa kế của cụ Đ gồm ông Phạm Quý Gh, ông Phạm Quý Ng, ông Phạm Quý Khu, bà Phạm Thị M đều thừa nhận vào năm 1986 cụ Đ và cụ Ph đã cho vợ chồng ông G đất. Thực tế, từ năm 1985, trên thửa đất số 159 có 02 gian nhà cấp 4 và gia đình ông G đã sinh sống trên nhà đất được cho từ năm 1985 đến năm 1995 thì chuyển ra đất mua của xã làm nhà. Cụ Ph và ông Ng cho rằng năm 1993, ông G đã trả lại các cụ thửa đất trên nên các cụ mới tặng cho ông C thửa đất này nhưng không đưa ra được căn cứ chứng minh có việc ông trả lại đất. Ông C trình bày, năm 1993 các cụ Đ, cụ Ph đã tặng cho ông C thửa đất số 159, tuy nhiên ông C cũng không đưa ra được căn cứ nào chứng minh có việc tặng cho này. Trong khi đó ông G, ông Gh, ông Khu, bà M (là các con của cụ Đ) đều khẳng định cụ Đ chưa bao giờ tặng cho thửa đất 159 cho ông C. Do đó, có cơ sở xác định thửa đất số 159, tờ bản đồ số 03 đã được cụ Đ cụ Ph tặng cho vợ chồng ông G từ năm 1986.
Về GCNQSD đất: Ông C xuất trình được bản chính GCNQSD đất, ông G không xuất trình được bản chính, chỉ có bản phô tô chứng thực. Xem xét hồ sơ cấp GCNQSD đất đối với thửa đất số 159, tờ bản đồ số 10 do UBND tỉnh Hải Dương cung cấp chỉ có: Công văn số 01/CV-UB ngày 10/10/1992 của UBND xã Liên Hồng (nội dung là trình xét cấp GCNQSD đất cho 1803 hộ và 04 tập thể); biên bản kiểm tra ngày 15/10/1992 (nội dung là kiểm tra chất lượng hồ sơ đề nghị cấp GCNQSD đất); công văn số 22-NN/ĐĐ ngày 25/12/1992 của Sở Nông nghiệp tỉnh Hải Hưng (nội dung là Sở Nông nghiệp đề nghị cấp GCNQSD đất cho 1803 hộ và 04 tập thể); Quyết định số 55QĐ/UB ngày 18/01/1993 của UBND tỉnh Hải Hưng (Quyết định cấp GCNQSD đất cho 1803 hộ và 04 tập thể); Danh sách các hộ gia đình xin cấp GCNQSD đất đợt 1 (thống kê tên chủ hộ, thửa đất, diện tích, loại đất được cấp GCNQSD đất).
Ông Phạm Quý G có tên tại số thứ tự 868, được đề nghị cấp GCNQSD đất cho thửa đất số 159, tờ bản đồ số 3, diện tích 176 m2 đất ở. Toàn bộ dòng ghi các thông tin ông Phạm Quý G và thửa đất được cấp GCNQSD đất không bị tẩy xóa, ghi chèn, ghi đè. Người làm chứng là ông L xác định năm 1993 cấp GCNQSD đất cho ông G, những người làm chứng khác gồm ông ông Tăng Văn B, bà Phạm Thị M, ông Phạm Quý Gh trình bày đã được xem GCNQSD đất bản chính của ông G. Trong khi đó, danh sách cấp GCNQSD đất lưu tại xã Liên Hồng chữ “C” bị ghi chèn, đè nên không khách quan. Do đó, có căn cứ xác định ngày 18/01/1993, ông Phạm Quý G đã được UBND tỉnh Hải Hưng quyết định cấp GCNQSD đất.
Từ những phân tích trên, có căn cứ xác định thửa đất số 159, tờ bản đồ số 03 là tài sản hợp pháp của vợ chồng ông Phạm Quý G và bà Lê Thị T. Diện tích thửa đất theo GCNQSD đất là 176m2, nhưng thực tế đo đạc là 158,2m2 (diện tích giảm là do sai số đo đạc, không có sự tranh chấp mốc giới với hộ giáp ranh hoặc lấn chiếm đất công) nên xác định thửa đất có diện tích 158,2m2 của vợ chồng ông G. Trên phần đất đó có 52,9m2 vợ chồng ông C, bà Ngh đang sử dụng xây lán xe, lát sân gạch và đổ sân trạt, 0,68m2 tường bao nên cần buộc ông C, bà Ngh tháo dỡ 01 lán xe, 0,68m tường bao, sân gạch và sân trạt trên phần đất 52,9m2 của ông G và trả lại ông G diện tích đất 52,9m2.
- Đối với yêu cầu hủy GCNQSD đất số D 0024896 do UBND tỉnh Hải Hưng cấp ngày 18/01/1993 (đã được UBND huyện Gia Lộc hợp pháp hóa tại trang 3 của GCNQSD đất ngày 11/10/2001): Như đã phân tích ở trên, thửa đất số 159, tờ bản đồ số 03 tại thôn Thanh Xá, xã Liên Hồng, thành phố HD được xác định là của ông Phạm Quý G và bà Lê Thị T. Do đó, ngày 18/01/1993, UBND tỉnh Hải Hưng cấp cho ông Phạm Quý C, đến ngày 11/10/2002 UBND huyện Gia Lộc hợp pháp hóa tại trang 3 là không đúng trình tự, thủ tục và nguồn gốc đất. Do đó, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông G, hủy GCNQSD đất số D 0024896 do UBND tỉnh Hải Hưng cấp ngày 18/01/1993 (đã được UBND huyện Gia Lộc hợp pháp hóa tại trang 3 của GCNQSD đất ngày 11/10/2001) mang tên ông Phạm Quý C.
Qua vụ án, cần tuyên truyền tới người dân nâng cao ý thức trong việc tặng, cho, chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải theo đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Không nên để các trường hợp tương tự xẩy ra trên địa bàn khi bố mẹ đã tặng cho một con, người con này không nhận tài sản, nhưng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải thực hiện thủ tục theo quy định của pháp luật để chuyển quyền sử dụng đất. Tránh trường hợp một thửa đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng ngày tháng năm cấp mà mỗi giấy chứng nhận mang tên một người./.
Bùi Thị Hậu, Phan Thị Thu Huyền
Phòng 9 - Viện KSND tỉnh Hải Dương