Phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm vụ án hành chính vcó trình chiếu hình ảnh.
Thứ năm - 21/03/2024 22:42
Ngày 18/3/2024, Tòa án tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hành chính “Khởi kiện hành vi hành chính về cung cấp thông tin liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”giữa người khởi kiện: ông Phạm Đức H, sinh năm 1965, địa chỉ đường Lạc Long Quân, thị trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương và người bị kiện: Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Hải Dương, địa chỉ số 159 đường Ngô Quyền, phường Tân Bình, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Phiên tòa xét xử vụ án hành chính ngày 18/3/2024 có trình chiếu hình ảnh
Nội dung vụ án: ông Phạm Đức H và bà Lê Thị M, sinh năm 1977, địa chỉ thôn An Xá, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 496 và thửa đất 497 với giá 2,1 tỷ đồng (bà M và anh Trần Thế H1 là đồng sở hữu đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất số 496 và thửa đất 497 và bà M được anh H1 ủy quyền được toàn quyền mua bán chuyển nhượng đối với 02 thửa đất trên). Ngày 7/10/2016 bà M ký giấy nhận số tiền 2 tỷ của ông H để chuyển nhượng thửa đất số 496 và số 497 và thỏa thuận sau khi nhận số tiền 2 tỷ thì bà M sẽ rút giấy chứng nhận quyền sử dụng hiện đang thế chấp tại ngân hàng để làm các thủ tục chuyển nhượng 02 thửa đất trên cho ông H. Do bà M không xuất trình được bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với 02 thửa đất chuyển nhượng nên Văn phòng công chứng không tiến hành làm các thủ tục chuyển nhượng đất cho ông H. Ông H đã có đơn yêu cầu Chi nhánh Văn phòng đăng ký huyện Nam Sách và Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Hải Dương cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 496, 497 và các thông tin đối với 02 thửa đất trên nhưng Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Hải Dương có văn bản trả lời từ chối cung cấp thông tin. Cho rằng việc chuyển nhượng thửa đất là hợp pháp nên việc không cung cấp các thông tin của Văn phòng đăng ký tỉnh Hải Dương trên là trái với quy định của pháp luật vì vậy ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án tỉnh Hải Dương giải quyết: Buộc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Hải Dương phải cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 496, 497 và các thông tin về đăng ký thế chấp, giải chấp, chuyển nhượng, tặng cho, trích đo địa chính, bẳng kê tọa độ ...đối với 02 thửa đất trên. Mặt khác ông H còn cho rằng việc ông khởi kiện để có các thông tin về 02 thửa đất trên là nhằm mục đích cung cấp cho vụ án dân sự về tranh chấp chuyển nhượng thửa đất với bà M mà ông đang khởi kiện tại Tòa án huyện Nam Sách do vậy mục đích sử dụng của ông là hợp pháp.
Xét thấy vụ án tranh chấp có tính chất phức tạp, đa dạng người tham gia tố tụng, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương đã lựa chọn để thực hiện phiên tòa rút kinh nghiệm có trình chiếu hình ảnh, tài liệu tại phiên tòa. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đã tham gia hỏi làm rõ tính hợp pháp của việc chuyển nhượng thửa đất giữa bà M và ông H. Đại diện cho người khởi kiện đã trình bày việc mua bán chuyển nhượng thửa đất của ông H với bà M trong thời điểm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà M đang thế chấp tại ngân hàng và không cung cấp được các tài liệu xác định ngân hàng đồng ý cho bà M được quyền tự định đoạt chuyển nhượng thửa đất đang thế chấp cho ông H, không biết và không cung cấp được thửa đất đó bà M thế chấp để vay ngân hàng số tiền bao nhiêu.
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ và hỏi đáp, tranh luận tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương đã nhận định:
Trường hợp thửa đất số 496, 497 đang thế chấp tại ngân hàng để thực hiện cho nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng thì ngân hàng có một phần quyền định đoạt đối với thửa đất đang thế chấp nên bà M không có toàn quyền tự định đoạt chuyển nhượng đối với thửa đất đang bị thế chấp.
Mặt khác hai bên chưa ký kết hợp đồng chuyển nhượng đất, bà M có đơn đề nghị các cơ quan quản lý không cung cấp các thông tin thửa đất đứng tên bà và anh H1 theo yêu cầu và đề nghị của ông H. Các thông tin họ tên, địa chỉ, số chứng minh nhân dân của bà M và anh H1 được ghi nhận tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc trường hợp bí mật khác quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị định 64/2007/NĐ-CP Bộ tài nguyên môi trường nên phải thực hiện việc cung cấp thông tin có điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật tiếp cận thông tin (có sự đồng ý của bà M và anh H1 cho cung cấp thông tin).
Ông H và bà M chưa ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất, chưa được văn phòng công chứng hợp đồng chuyển nhượng, đồng thời ông H không phải là người thực hiện việc đăng ký thế chấp, giải chấp 02 thửa đất trên do vậy xác định ông H không phải là người liên quan đến việc đăng ký thế chấp, xóa thế chấp, chuyển nhượng, tặng cho, đăng ký biến động đối với 02 thửa đất số 496 và 497 của bà M và anh H1 nên không thuộc trường hợp cung cấp thông tin theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 99/NĐ-CP ngày 30/11/2022 của Chính phủ và thuộc trường hợp bảo mật hồ sơ địa chính quy định tại khoản 1 Điều 31 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 quy định về hồ sơ địa chính.
Việc cung cấp trích đo địa chính thửa đất theo yêu cầu của ông H chỉ thực hiện theo nhu cầu của người sử dụng đất và thông qua hợp đồng dịch vụ và đồng thời yêu cầu người sử dụng đất xuất trình các giấy tờ liên quan đến thửa đất theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Thông tư 25/2014- BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ tài nguyên môi trường.
Ông H cho rằng các thông tin ông yêu cầu cung cấp để sử dụng vào mục đích hợp pháp là cung cấp cho vụ án tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà M mà ông đang khởi kiện tại Tòa án huyện Nam Sách. Tuy nhiên việc ông H khởi kiện yêu cầu cung cấp thông tin đối với 02 thửa đất đứng tên bà M và anh H1 là thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật hành chính và phải thực hiện theo quy định của Luật tiếp cận thông tin và các văn bản hướng dẫn quy định của pháp luật. Đối với việc thu thập các thông tin của thửa đất đứng tên bà M và anh H1 mà ông đang khởi kiện tại Tòa án Nam Sách được thu thập và thực hiện theo trình tự quy định của Luật tố tụng dân sự.
Từ những nhận định nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương đã áp dụng các quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Đức H.
Trong quá trình phát biểu quan điểm, Kiểm sát viên đã trình chiếu những tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lập luận của mình. Sau khi kết thúc phiên tòa đơn vị đã họp rút kinh nghiệm đối với Kiểm sát viên thực hiện xét xử vụ án.
Trên cơ sở đề nghị của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đã tuyên án như quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương.
|
Đinh Thị Thanh Huế, Phạm Quang Hòa
Phòng 10 – VKSND tỉnh Hải Dương |