Viện KSND huyện Kim Thành: Kháng nghị phúc thẩm đối với Bản án “Tranh chấp về chia tài sản chung, nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, tranh chấp về hợp đồng hợp tác” của TAND huyện Kim Thành

Thứ ba - 22/10/2024 10:26
Chị Phạm Thị Tố Khuyên và anh Phùng Văn Tài tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 27/01/1996 tại UBND xã Ngũ Phúc, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Sau một thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên chị Khuyên đã làm đơn khởi kiện đến Toà án nhân dân huyện Kim Thành yêu cầu giải quyết ly hôn với anh Tài và chia tài sản chung là 02 thửa đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hai vợ chồng, gồm: Thửa đất số 285 tờ bản đồ số 07, diện tích 137m2, trên đất có một nhà 3 tầng tại thôn Bằng Lai và thửa đất vườn số 258 tờ bản đồ số 31, diện tích 309m2 tại thôn Dưỡng Mông, đều thuộc xã Ngũ Phúc, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
 
(ảnh minh họa)
Quá trình giải quyết vụ án:
+ Anh Tài có đơn yêu cầu phản tố đề nghị Toà án giải quyết chia tài sản chung vợ chồng gồm: Số tiền 350 triệu đồng bán căn hộ chung cư tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa do chị Khuyên quản lý; Dự án nhà hàng ăn uống, vui chơi giải trí và tập luyện thể thao tại thôn Lễ Độ, xã Kim Anh, huyện Kim Thành đã được UBND huyện Kim Thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CQ 242951 cho anh Tài (thời hạn sử dụng đến 12/9/2038) và giải quyết nợ chung là số tiền 200 triệu đồng vợ chồng đã vay của anh Nguyễn Công Hiệu và chị Phùng Thị Hoa.
+ Anh Hà Huy Hiếu có đơn yêu cầu độc lập đề nghị Toà án giải quyết buộc anh Tài, chị Khuyên phải trả anh Hiếu số tiền 150 triệu đồng là tiền công san lấp mặt bằng của Dự án nêu trên.
+ Anh Trần Văn Tùng có đơn yêu cầu độc lập đề nghị Tòa án công nhận anh là thành viên góp 50% vốn đầu tư thực hiện Dự án nêu trên và đề nghị Tòa án phân chia tài sản chung giữa anh Tùng và vợ chồng anh Tài, chị Khuyên bằng hiện vật và giao toàn bộ Dự án trên cho anh Tùng thực hiện, anh Tùng có nghĩa vụ thanh toán số tiền tương đương 50% vốn góp dự án cho vợ chồng anh Tài, chị Khuyên.
Ngày 27/6/2024 chị Khuyên rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Anh Tài vẫn giữ nguyên yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung; anh Tùng, anh Hiếu giữ nguyên yêu cầu độc lập. Tòa án đã ra thông báo thay đổi quan hệ pháp luật tranh chấp và thay đổi tư cách tham gia tố tụng: Anh Tài trở thành nguyên đơn, chị Khuyên trở thành bị đơn, anh Tùng, bà Thùy, anh Hiếu, chị Hoa, anh Hiệu là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tại phiên toà ngày 30/9/2024, anh Tài đề nghị giải quyết yêu cầu ly hôn với chị Khuyên và tự nguyện rút một phần yêu cầu chia số tiền 350 triệu đồng; đại diện theo uỷ quyền của anh Tùng rút một phần yêu cầu độc lập, chỉ yêu cầu Tòa án công nhận anh Tùng là thành viên góp vốn của Dự án, không yêu cầu phân chia Dự án và đề nghị tài sản hình thành từ Dự án là tài sản chung của các thành viên góp vốn nên các bên có quyền lợi ngang nhau, xác định số tiền góp vốn là 950 triệu đồng, không đúng như văn bản thỏa thuận góp vốn 01 tỷ đồng là do tiến độ góp vốn đến thời điểm đó là 950 triệu đồng nhưng vợ chồng chị Khuyên, anh Tài mâu thuẫn, không triển khai được dự án nên chưa góp vốn thêm.
Tại Bản án số dân sự số 49/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Kim Thành quyết định:
1. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của chị Phạm Thị Tố Khuyên về việc xin ly hôn với anh Phùng Văn Tài.
2. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của chị Phạm Thị Tố Khuyên về yêu cầu chia tài sản chung là quyền sử dụng diện tích 137m2 đối với thửa đất số 285, tờ bản đồ số 07 ở thôn Bằng Lai, xã Ngũ Phúc, huyện Kim Thành và quyền sử dụng diện tích 309m2 đối với thửa đất số 258, tờ bản đồ số 31 tại thôn Dưỡng Mông, xã Ngũ Phúc, huyện Kim Thành.
3. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của anh Phùng Văn Tài về yêu cầu chia số tiền 350 triệu đồng.
4. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn Tùng.
Công nhận văn bản thỏa thuận góp vốn ngày 31/10/2017 giữa anh Trần Văn Tùng và vợ chồng chị Phạm Thị Tố Khuyên, anh Phùng Văn Tài là hợp pháp.
Xác định anh Trần Văn Tùng có 50% vốn góp cùng với 50% vốn góp của vợ chồng chị Phạm Thị Tố Khuyên, anh Phùng Văn Tài trong việc đầu tư Dự án xây dựng nhà hàng ăn uống, vui chơi giải trí và tập luyện thể thao tại xã Kim Anh, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Các thành viên hợp tác trong Dự án xây dựng nhà hàng ăn uống, vui chơi giải trí và tập luyện thể thao tại xã Kim Anh, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương gồm: anh Trần Văn Tùng, vợ chồng chị Phạm Thị Tố Khuyên và anh Phùng Văn Tài có quyền ngang nhau trong việc định đoạt đối với tài sản là diện tích đất 4629,2m2 tại thửa đất số 464, tờ bản đồ số 7, tại thôn Lễ Độ, xã Kim Anh, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CQ 242951 do UBND huyện Kim Thành cấp ngày 29/7/2019 mang tên Phùng Văn Tài (diện tích này đã bị thu hồi 271 m2 theo Quyết định số 440/QĐ-UBND ngày 13/4/2023 của UBND huyện Kim Thành) cùng các tài sản trên đất theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 27/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện Kim Thành.
Anh Trần Văn Tùng và vợ chồng chị Phạm Thị Tố Khuyên, anh Phùng Văn Tài có quyền và nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh, bổ sung thông tin về chủ đầu tư thực hiện Dự án, chủ sử dụng đất và các nội dung khác liên quan khác đến Dự án theo đúng quy định của Luật Đầu tư năm 2020 và Luật Đất đai năm 2014.
5. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hà Huy Hiếu: Buộc anh Phùng Văn Tài và chị Phạm Thị Tố Khuyên có nghĩa vụ trả anh Hà Huy Hiếu số tiền 150.000.000 đồng. Chia theo phần, mỗi người phải trả số tiền 75.000.000 đồng.
6. Buộc anh Phùng Văn Tài và chị Phạm Thị Tố Khuyên có nghĩa vụ trả ông Nguyễn Công Hiệu và bà Phùng Thị Hoa số tiền 200.000.000 đồng. Chia theo phần, mỗi người phải trả số tiền 100.000.000 đồng.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của các đương sự.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án, diễn biến phiên tòa và nghiên cứu Bản án sơ thẩm số 49/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024 của TAND huyện Kim Thành, xác định Hội đồng xét xử Toà án nhân dân huyện Kim Thành công nhận văn bản thỏa thuận góp vốn ngày 31/10/2017 giữa anh Trần Văn Tùng và vợ chồng chị Phạm Thị Tố Khuyên, anh Phùng Văn Tài là chưa đảm bảo căn cứ, có sai lầm trong đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật, chưa giải quyết hết yêu cầu khởi kiện, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cụ thể:
1. Bản án nhận định ngày 31/7/2017 anh Tùng và hộ gia đình chị Khuyên đã ký văn bản thỏa thuận góp vốn là không chính xác. Trong khi, văn bản thỏa thuận này chỉ có chữ ký bên góp vốn Trần Văn Tùng, bên nhận góp vốn Phạm Thị Tố Khuyên và người làm chứng Trần Trang Thùy, không có chữ ký của anh Tài (chồng chị Khuyên). Anh Tài không thừa nhận có việc góp vốn, chị Khuyên, anh Tùng và bà Thùy đều không cung cấp được chứng cứ chứng minh anh Tài biết, đồng ý hoặc ủy quyền cho chị Khuyên nhận góp vốn vào Dự án nhà hàng ăn uống, vui chơi giải trí và tập luyện thể thao tại thôn Lễ Độ, xã Kim Anh, huyện Kim Thành đã được UBND huyện Kim Thành phê duyệt và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đứng tên anh Tài. Đây là sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ, dẫn đến việc Bản án công nhận văn bản thỏa thuận nêu trên hợp pháp, xác định anh Tùng có 50% vốn góp cùng với 50% vốn góp của vợ chồng chị Khuyên, anh Tài trong Dự án nêu trên là chưa đảm bảo căn cứ theo quy định tại các Điều 25, 35, 36, 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các Điều 138, 212, 213, 504, 505 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Bản án tuyên anh Tùng, vợ chồng chị Khuyên, anh Tài là các thành viên hợp tác trong Dự án nêu trên, có quyền ngang nhau trong việc định đoạt đối với tài sản là diện tích đất 4629,2m2 tại thửa đất số 464, tờ bản đồ số 7, tại thôn Lễ Độ, xã Kim Anh, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CQ 242951 do UBND huyện Kim Thành cấp ngày 29/7/2019 mang tên Phùng Văn Tài (diện tích này đã bị thu hồi 271 m2 theo Quyết định số 440/QĐ-UBND ngày 13/4/2023 của UBND huyện Kim Thành) cùng các tài sản trên đất theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 27/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện Kim Thành. Tuy nhiên, Bản án chỉ buộc anh Tài và chị Khuyên có nghĩa vụ trả anh Hà Huy Hiếu số tiền 150.000.000 đồng tiền công san lấp mặt bằng của Dự án, chia theo phần, mỗi người phải trả anh Hiếu 75.000.000 đồng, mà không buộc anh Tùng phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ là chưa đảm bảo căn cứ theo quy định tại các Điều 288, 506, 507, 508, 509 Bộ luật Dân sự năm 2015, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của anh Tài, chị Khuyên.
3. Anh Tài có đơn yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng là Dự án nhà hàng ăn uống, vui chơi giải trí và tập luyện thể thao tại thôn Lễ Độ, xã Kim Anh, huyện Kim Thành, đã nộp tạm ứng án phí, Tòa án nhân dân huyện Kim Thành có Thông báo thụ lý số 50A ngày 11/5/2022; tại phiên tòa, anh Tài giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Tuy nhiên, Bản án chỉ xác định anh Tùng có 50% vốn góp cùng với 50% vốn góp của vợ chồng chị Khuyên, anh Tài trong việc đầu tư Dự án nêu trên, chưa giải quyết chia tài sản chung vợ chồng, là chưa giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của anh Tài.
4. Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của anh Tùng đề nghị rút một phần yêu cầu độc lập, chỉ yêu cầu Tòa án công nhận anh Tùng là thành viên góp vốn của Dự án nêu trên, không yêu cầu phân chia Dự án. Tuy nhiên, Bản án không đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu phân chia Dự án mà anh Tùng đã rút là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Bản án sơ thẩm đã có vi phạm nghiêm trọng trong việc đánh giá chứng cứ và chưa giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của các đương sự, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, vi phạm quy định tại các Điều 5, 108 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Ngày 14/10/2024 Viện trưởng VKSND huyện Kim Thành đã ban hành Kháng nghị số 01/KN-VKS-HNGĐ, kháng nghị một phần bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024 của TAND huyện Kim Thành theo thủ tục phúc thẩm. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm theo hướng áp dụng khoản 3 Điều 308, khoản 1 Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự, hủy một phần Bản án sơ thẩm số 49/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Kim Thành và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Kim Thành giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm./.
                                                                                                                                          Bùi Thị Nhuần & Vũ Văn Tiến
                                                                                                                                             VKSND huyện Kim Thành


 

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây