A phạm tội thuộc trường hợp tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?

Thứ năm - 23/05/2024 05:27
Xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với người phạm tội có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến việc áp dụng tình tiết tăng nặng hoặcđịnhkhung hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự (viết tắt là BLHS). Tuy nhiên, việc xác định tái phạm và tái phạm nguy hiểm vẫn còn có những quan điểm khác nhau và chưa thống nhất dẫn đến việc cùng một hành vi phạm tội nhưng có nhiều quan điểm về áp dụng tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Trong phạm vi bài viết tôi xin nêu một trường hợp cụ thể như sau:
Nguyễn Văn A, sinh năm 1970, trú tại thôn V, xã H, huyện B.Ngày 31/10/2023 A thực hiện hành vi phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (lượng ma túy thu giữ khi bắt quả tang là 0,3gamHeroine). Khi xem xét tiền án, nhân thân của A thấy trước đó A đã hai lần bị Tòa án nhân dân huyện B xét xử như sau:
- Ngày 08/6/2013 phạm tội Trộm cắp tài sản (số tiền trộm cắp trên 2.000.000 đồng) bản án HSST số 55 ngày 08/9/2013 TAND huyện B xử phạt 20 
tháng tù (phạt bổ sung, trách nhiệm dân sự: không; án phí 200.000đ), A chấp hành xong 200.000đ tiền án phí vào ngày 08/8/2014,chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 19/12/2014;
- Ngày 11/11/2015 phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm h khoản 2 Điều 251 BLHS, bản án HSST số 33 ngày 28/4/2016 TAND huyện B xử phạt 08 năm tù (phạt bổ sung, trách nhiệm dân sự:không; án phí: 200.000đ).A chấp hành xong 200.000đ tiền án phí vàongày 10/10/2018, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 06/10/2021.
Như vậy, theo khoản 2 Điều 70, khoản 1, 2 Điều 73 BLHS, tính đến thời điểm A phạm tội vào ngày 31/10/2023,Bản án số 55 đã đượcxóa án tích, bản án số 33 chưa được xóa án tích.
Đến nay còn có nhiều quan điểm về xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với A, dẫn đến khác nhau trong áp dụng khung hình phạt và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự với A, cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất (cũng là quan điểm của tác giả): A phạm tội thuộc trường hợp Tái phạm nguy hiểm. Bởi vì: Bản án số 33 ngày 28/4/2016 xác định A tái phạm(việc xác định tái phạm đối với A đảm bảo đúng quy định tại khoản 1 Điều 53 BLHS), và bản án này A chưa được xoá án tích nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 53 BLHS quy định “ Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội có cố ý…”, do đó A phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Mặc dù đến thời điểm phạm tội lần này Bản án số 55ngày 08/9/2013 - là căn cứ để xác định hành vi phạm tội tại bản án số 33ngày 28/4/2016  là tái phạm đã được xoá án tích, nhưng tính chất tái phạm của hành vi phạm tội được ghi nhận trong bản án số 33 vẫn không thay đổi, nhận thức này phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 53 BLHS. Do vậy lần phạm tội này của A thuộc trường hợp Tái phạm nguy hiểm, vì vậy A phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS.
Quan điểm thứ hai: A phạm tội thuộc trường hợp tái phạm. Vì mặc dù bản án số 33 ngày 28/4/2016 đã xác định A thuộc trường hợp tái phạm nhưng bản án là căn cứ để xác định A thuộc trường hợp tái phạm (bản án số 55 ngày 08/9/2013) đến thời điểm phạm tội lần này (ngày 31/10/2023) đã được đương nhiên xoá án tích ( theo điều 73 BLHS), nên A được coi như chưa bị kết án theo khoản 1 Điều 69 BLHS, vì vậy cần phải đánh giá độc lập về từng bản án, theo đó không căn cứ vào việc xác định A đã tái phạm tại bản án số 33 mà cần xác định tính đến ngày 31/10/2023 A còn mấy bản án chưa được đương nhiên xóa, theo đó thì tính đến lần phạm tội ngày 31/10/2023 A chỉ còn 1 bản án chưa được xóa về tội rất nghiêm trọng, lần này A phạm tội nghiêm trọng do cố ý nên hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp tái phạm theo khoản 1 Điều 53 BLHS. Vậy A phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, với tình tiết tăng nặng là tái phạm.
Mong các đồng nghiệp tiếp tục trao đổi!
                                                                 Thu Nga
VKSND huyện Bình Giang
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây