Cần hướng dẫn áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 29 Bộ luật hình sự 2015

Thứ năm - 31/03/2016 23:11
Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về miễn trách nhiệm hình sự
Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 (sau đây gọi là Bộ luật hình sự năm 2015) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, quy định căn cứ miễn trách nhiệm hình sự tại Điều 29, cụ thể: 1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây: a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; b) Khi có quyết định đại xá. 2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. 3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Nội dung quy định cho thấy, Cơ quan tiến hành tố tụng ( Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) có quyền và trách nhiệm miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho người phạm tội trong các trường hợp:
Thứ nhất: Phải miễn trách nhiệm hình sự trong 02 trường hợp: do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và khi có quyết định đại xá.
Thứ hai: Có thể miễn trách nhiệm hình sự trong 04 trường hợp:  Do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận; Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Đối với người chưa thành niên phạm tội, ngoài các trường hợp Được miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 29 khoản 1, họ còn Có thể được miễn trách nhiệm hình sự, quy định tại Điều 91 khoản 2 Bộ luật hình sự năm 2015 :  Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này; c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.
Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo hướng:  phân biệt những trường hợp đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự và trường hợp (02 trường hợp) và có thể được miễn trách nhiệm hình sự ( 06 trường hợp). Quy định này đã thể hiện đúng tinh thần và cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn, kế thừa, phát triển các quy định còn phù hợp của BLHS năm 1999, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện nay (khoản 2 Điều 25 BLHS 1999).
Nếu như Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: Người chưa thành niên (NCTN) phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có các điều kiện sau: NCTN phạm tội có thể được miễn TNHS, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng ( Điều 8 khoản 3: Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù)và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục; NCTN phạm tội có thể được miễn TNHS, nếu người đó phạm tội nghiêm trọng (Điều 8 khoản 3: Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù), gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Không quy định khi miễn TNHS đối với NCTN phạm tội, các cơ quan tố tụng phải áp dụng kèm theo các biện pháp giám sát, giáo dục họ. Thì Bộ luật hình sự năm 2015 đã  đổi mới quy định về miễn TNHS đối với NCTN phạm tội, theo cơ quan tiến hành tố tụng có thể xem xét, áp dụng việc miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội mà có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, trong các trường hợp cụ thể theo quy định của Bộ luật (khoản 2 Điều 91); Không phân biệt loại tội NCTN phạm tội; Quy định cụ thể các loại tội NCTN không được miễn TNHS ( 08 tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; 14 tội đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi ); Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án. Quy định: khi quyết định miễn TNHS cho người dưới 18 tuổi, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục (quy định tại Mục C Chương XII) đối với họ, bao gồm: Khiển trách; Hòa giải tại cộng đồng; hoặc Giáo dục tại xã, phường, thị trấn (các điều từ 93 đến 95). Việc quyết định miễn TNHS và áp dụng các biện pháp này chỉ được thực hiện khi người phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý (Điều 92).
Đây là những điểm mới, tiến bộ được quy định trong Bộ luật với mục đích tăng khả năng áp dụng các quy định về miễn TNHS đối với NCTN phạm tội, hạn chế thấp nhất việc phải áp dụng hình phạt và các biện pháp tư pháp đối với NCTN phạm tội, xuất phát từ đặc điểm của độ tuổi cũng như yêu cầu tăng cường trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc giám sát, giáo dục NCTN, việc áp dụng các biện pháp xử lý mang tính chất thay thế hình phạt và biện pháp tư pháp như: khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn là phù hợp với điều kiện tâm, sinh lý và yêu cầu giáo dục, phòng ngừa NCTN phạm tội. Việc quy định các biện pháp giám sát, giáo dục bắt buộc kèm theo sẽ bảo đảm việc xem xét, quyết định miễn TNHS và việc giáo dục, phòng ngừa xã hội được thực hiện đầy đủ, chặt chẽ, giúp NCTN phạm tội nhận thức được lỗi lầm, ăn năn hối cải và khắc phục sai phạm.(1)
Vướng mắc khi nghiên cứu Bộ luật hình sự năm 2015
Quy định Được miễn TNHS (Điều 29 khoản 1)  là cụ thể, sẽ thống nhất khi áp dụng, bởi sự thay đổi chính sách, pháp luật là quy định nhận biết được ngay khi văn bản quy phạm pháp luật mới ra đời thay thế văn bản quy phạm pháp luật cũ và Quyết định đại xá của Chủ tịch nước Cộng hoà XHCN Việt Nam theo Luật định;
Quy định Có thể được miễn THHS ( Điều 29 khoản 2), là không dễ đánh giá khi áp dụng; Hiểu thế nào là do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, tình hình thuộc người phạm tội hay người bị xâm hại, hay tình hình trật tự xã hội như thế nào thì được coi người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữ tại thời điểm điều tra, truy tố, xét xử. Thế nàocó cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận; Nhà nước thừa nhận được xác định bằng văn bản, quyết định, còn xã hội thừa nhận bằng hình thức gì… cần phải có hướng dẫn để thống nhất áp dụng.
Quy định tại khoản 3 Điều 29 Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự, dẫn đến hai cách giải quyết khác nhau;
Thứ nhất: Quyết định Khởi tố vụ án, sau đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát theo giai đoạn tố tụng, để ra Quyết định Đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều 230 khoản 1điểm a, Điều 248 khoản 1 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bởi không có căn cứ  không khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 157 Bộ luật hình sự năm 2015 là: 1. Không có sự việc phạm tội; 2. Hành vi không cấu thành tội phạm; 3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;6. Tội phạm đã được đại xá;7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; 8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
Thứ hai: Mặc dù Luật không quy định, nhưng có thể vận dụng Điều 157 khoản 2 Bộ luật hình sự, trường hợp Hành vi không cấu thành tội phạm để ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Hai cách giải quyết khác nhau, đều dẫn đến việc không truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu cách thứ nhất  tuân thủ pháp luật triệt để trong hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát, nhưng việc kéo dài thời hạn gian giải quyết vụ án hình sự không cần thiết, có thể ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, thì cách thứ hai có thể kịp thời hơn trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, nhưng Bộ luật tố tụng chưa quy định cụ thể.
Như vậy chế định về Miễn trách nhiệm hình sự, quy định tại điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015, cần phải có giải thích của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao, để thống nhất áp dụng ngày khi Bộ luật hình sự  năm 2015 có hiệu lực thi hành đầy đủ vào ngày 01/7/2016. Trên đây là một số ý kiến của tôi về việc áp dụng Điều 29 BLHS năm 2015 đưa ra cùng trao đổi với các đồng chí để tiếp tục nghiên cứu thực hiện trong thời gian tới.

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây