- Trang nhất
- Viện KSND tỉnh
- Viện KSND cấp huyện
- Tin Tức
- Nghiệp vụ
- Tin hoạt động
- Văn bản
- Lịch làm việc
- Họp không giấy
Nội dung vụ án: Ông Đinh Quang T, sinh năm 1957 và bà Hoàng Thị H, sinh năm 1959, Đều trú tại địa chỉ: khu X, phường N, thành phố H là chủ sở hữu thửa đất số 102 tờ bản đồ số 10 diện tích 704m2 tại xã N, thị xã H (nay là phường N, thành phố H), được UBND tỉnh H cấp GCNQSDĐ số 1079 ngày 23/7/1991. Ngày 07/5/2008 UBND thành phố H ban hành quyết định số 1818/QĐ-UBND thu hồi 1136 GCNQSDĐ của hộ gia đình cá nhân thuộc phường N trong đó có hộ ông T bà H do có sai sót trong việc đóng dấu chữ ký của Chủ tịch UBND tỉnh H. Ngày 25/2/2020 ông T có đơn đề nghị cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất trên, ngày 26/6/2020 UBND phường N xác nhận về nguồn gốc, diện tích thửa đất của ông T. Không nhất trí với xác nhận của UBND phường N về nguồn gốc và diện tích đất ở được công nhận, ông T có đơn khiếu nại đối với bản xác nhận. UBND phường N đã thụ lý giải quyết đơn theo trình tự của Luật khiếu nại và ra Quyết định giải quyết khiếu nại số 170/QĐ-UBND ngày 28/11/2020 giữ nguyên nội dung xác nhận ngày 26/6/2020 của UBND phường N. UBND phường N cho rằng bản xác nhận ngày 26/6/2020 và quyết định giải quyết khiếu nại số 170 ông T không cung cấp được các giấy tờ theo quy định tại các khoản 1,2,3 Điều 100 Luật đất đai và Nghị Định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 nên cần áp dụng điểm a khoản 3 và dẫn chiếu đến quy định tại điểm e khoản 2 Điều 9 Quyết định số 22/2018/QĐ-UBND ngày 01/10/2018 của UBND tỉnh H về việc ban hành quy định hạn mức đất ở, hạn mức công nhận đất ở diện tích tối thiểu được phép tách thửa trên địa bàn tỉnh H để xác nhận hộ ông T được công nhận diện tích đất ở là 400m2.
Ngày 18/12/2020 ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố H giải quyết: Hủy bản xác nhận ngày 26/6/2020 và Quyết định giải quyết khiếu nại số 170 của UBND phường N; buộc UBND phường N phải xác nhận nguồn gốc sử dụng đất của ông được cấp năm 1980 và yêu cầu bồi thường số tiền 160.000.000đ.
Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2021/HC-ST ngày 16/9/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố H đã quyết định: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Quang T.
Ngày 24/1/2022 Tòa án nhân dân tỉnh H mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hành chính về yêu cầu “ Khởi kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai và yêu cầu bồi thường” do có kháng cáo của người khởi kiện là ông Đinh Quang T và bà Hoàng Thị H kháng cáo toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2021/HC-ST ngày 16/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố H.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T và bà H tự nguyện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện và kháng cáo, người bị kiện đồng ý về việc rút yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của người khởi kiện. Hội đồng xét xử phúc thẩm đã căn cứ Điều 234 Luật TTHC quyết định Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án hành chính.
Qua kiểm sát giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm thấy còn có những quan điểm nhận thức khác nhau về đối tượng khởi kiện trong vụ án như sau:
Quan điểm thứ nhất:
Xác nhận ngày 26/6/2020 của UBND phường N xác nhận vào đơn đề nghị cấp GCNQSDĐ của ông T bà H là một trong các trình tự thủ tục để đăng ký, cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (quy định tại Điều 8- Thông tư 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên môi trường quy định về hồ sơ địa chính) được thực hiện theo mẫu số 4a quy định tại Thông tư 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên môi trường. Theo mẫu 4ª sau khi UBND cấp xã, phường xác nhận (về hiện trạng, nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp, các nội dung khác) phần phía dưới có xét duyệt của cơ quan đăng ký đất đai (xét duyệt đủ hay không đủ điều kiện cấp GCN, đất có vườn, ao gắn liền nhà phải xác định rõ diện tích đất ở được công nhận và căn cứ pháp lý).
Tại điểm c khoản 2 Điều 70 – Nghị định 43/2014 ngày 15/5/2014 Chính phủ quy định:“2. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam đề nghị đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ và thực hiện các công việc như sau:
c) Niêm yết công khai kết quả kiểm tra hồ sơ, xác nhận hiện trạng, tình trạng tranh chấp, nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và khu dân cư nơi có đất, tài sản gắn liền với đất trong thời hạn 15 ngày; xem xét giải quyết các ý kiến phản ánh về nội dung công khai và gửi hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai”.
Ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy bản xác nhận ngày 26/6/2020 của UBND phường N tuy nhiên tại bản xác nhận này chưa có ý kiến xét duyệt của cơ quan đăng ký đất đai do vậy đối chiếu với các quy định nêu trên thì trường hợp ông T không nhất trí với nội dung bản xác nhận thì UBND phường N có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, giải quyết các ý kiến phản ánh của người dân và thực hiện việc gửi hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai xem xét quyết định. Tuy nhiên, trong vụ án này UBND phường N lại thụ lý giải quyết đơn của ông T theo trình tự quy định của Luật khiếu nại và đã ra quyết định giải quyết khiếu nại số 170 ngày 28/11/2020 với nội dung giữ nguyên nội dung bản xác nhận ngày 26/6/2020.
Theo quy định tại Điều 3, khoản 2 Điều 118 Luật TTHC thì bản xác nhận ngày 26/6/2020 của UBND phường N chưa phát sinh ảnh hưởng quyền lợi ích của ông T vì UBND phường N chỉ là đơn vị xác nhận mà không có quyền quyết định xét duyệt. Do đó dẫn đến quyết định số 170 ngày 28/11/2020 của UBND phường N (giải quyết khiếu nại của ông T về xác nhận ngày 26/6/2020) được xác định là văn bản giải quyết các ý kiến phản ánh của ông T nên chưa phát sinh nghĩa vụ của người sử dụng đất, chủ sở hữu gắn liền với đất. Do vậy bản xác nhận ngày 26/6/2020 và quyết định giải quyết khiếu nại số 170 ngày 28/11/2020 của UBND phường N chưa đủ điều kiện để ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Từ những phân tích đánh giá nêu trên cho thấy bản xác nhận và quyết định giải quyết số 170 của UBND phường N chưa phát sinh ảnh hưởng quyền lợi của ông T nên không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng hành chính và không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Đây là quan điểm cá nhân của người viết bài trao đổi.
Quan điểm thứ hai:
Quá trình xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm thu thập 01 sổ đăng ký ruộng đất năm 1985 trong đó có tên ông Đinh Quang T do UBND phường N cung cấp. Bản xác nhận ngày 26/6/2020 không phải là quyết định hành chính, việc xác nhận của UBND phường N là hành vi hành chính. Tại bản xác nhận ngày 26/6/2020 và Quyết định giải quyết khiếu nại số 170 ngày 28/11/2020 của UBND phường N đều không xác nhận ông T có tên trong sổ ruộng đất nên xác định là trường hợp không có giấy tờ theo điều 100 Luật đất đai và áp dụng điểm a khoản 3 và dẫn chiếu đến điểm e khoản 2 Điều 9 Quyết định số 22/2018/QĐ-UBND ngày 01/10/2018 của UBND tỉnh H về việc ban hành quy định hạn mức đất ở, hạn mức công nhận đất ở diện tích tối thiểu được phép tách thửa trên địa bàn tỉnh H để xác nhận hộ ông T được công nhận diện tích đất ở là 400m2. Như vậy việc xác nhận và giải quyết khiếu nại của UBND phường N là không đúng với quy định của phát luật vì căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 100 Luật đất đai hộ ông T có tên trong sổ ruộng đất trước năm 1993 thì được coi là có giấy tờ nên áp dụng điểm c khoản 2 Điều 9 của Quyết định số 22/2018/QĐ-UBND ngày 01/10/2018 của UBND tỉnh H xác nhận hộ ông T được công nhận diện tích đất ở là 550m2. Hành vi của UBND phường N xác nhận như trên là chưa đúng dẫn đến xâm phạm đến quyền lợi ích của ông T. Quyết định giải quyết khiếu nại số 170 của UBND phường N là quyết định hành chính xâm phạm quyền lợi ích của ông T nên Quyết định giải quyết số 170 là đối tượng khởi kiện của Luật TTHC và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do vậy Tòa án phải thụ lý và xem xét giải quyết hành vi hành chính và hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 170 để đảm bảo quyền lợi của ông T bà H.
Trên cơ sở bài viết, rất mong các đồng nghiệp có quan điểm hoặc có những phân tích đánh giá khác để phản hồi và cùng trao đổi nghiệp vụ.
Đinh Thị Thanh Huế - Phòng 10
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
© 2017 Bản quyền của VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG.