Được Nhà nước giao đất nhưng không sử dụng mà để người khác sử dụng ổn định, lâu dài có kiện đòi lại quyền sử dụng đất được hay không?

Thứ tư - 06/11/2024 03:26
Thửa đất tranh chấp được thể hiện tại hồ sơ 299 thửa đất số 71, tờ bản đồ số 07, diện tích 690m2, loại đất "T cư", tên chủ SDĐ tại sổ mục kê ghi "Đào Văn Th". Hồ sơ năm 1993 thửa đất số 80, tờ bản đồ số 07, diện tích 320m2, loại đất "T 300m2; V82m2", tên chủ SDĐ tại sổ mục kê ghi "Trần Văn Thi". Hồ sơ năm 2008 thửa đất số 139, tờ bản đồ số 25, diện tích 378m2, loại đất "ONT", tên chủ SDĐ tại sổ mục kê ghi "Trương Công T". Về hồ sơ cấp GCNQSDĐ: Đơn xin cấp GCNQSDĐ ngày 30/11/1995 của ông Trần Văn Thi tại thửa đất số 80, tờ bản đồ số 07, diện tích 382 m2 (có chữ ký của ông Trần Văn Thi). Danh sách xét duyệt cấp đất ở cho các hộ dân xã An Lâm có tên ông Trần Văn T, tại thửa đất số 80, tờ bản đồ số 07, diện tích 382m2 (đất ở 300m2; đất vườn 82m2). Ngày 26/6/2002, UBND huyện NS ban hành Quyết định số 487/QĐ-UB về việc cấp GCNQSDĐ cho 1431 hộ cá nhân và tổ chức thuộc xã An Lâm, trong đó: Số thứ tự số 887, ông Trương Văn T được cấp GCNQSDĐ tại thửa đất số 80, tờ bản đồ số 07, diện tích 382m2. Ngày 10/5/2011, ông T có đơn xin tách thửa đất số 80, tờ bản đồ số 07 thành 02 thửa đất. Ngày 18/5/2011,  ông T tặng cho QSDĐ cho ông Trương Văn Kh tại thửa đất số 80, tờ bản đồ số 07, diện tích tặng cho là 195m2 (đất ở 150m2; đất trồng cây lâu năm 45m2) được Phòng Công chứng số 2 công chứng tỉnh HD, vào sổ công chứng số: 812, Quyển số: 02TP/CC-SCC/HĐGD. Sau đó, ông T, ông Kh có đơn đề nghị cấp GCNQSDĐ và được cấp GCNQSDĐ vào ngày 10/6/2011
UBND xã AL: Về nguồn gốc, quá trình SDĐ được thể hiện trên hồ sơ địa chính, bản đồ địa chính như UBND huyện đã cung cấp. UBND xã không có hồ sơ lưu thể hiện về trình tự, thủ tục đăng ký cấp GCN 02 thửa đất nêu trên đối với ông Kh tại thửa đất số 637, tờ bản đồ số 07, diện tích 195m2 và ông T tại thửa đất số 80, tờ bản đồ số 07, diện tích 187m2. Về tổng diện tích của hai thửa đất trên có sự thay đổi theo thẩm định thực tế là 365,4m2 (giảm 16.6m2 so với GCNQSDĐ đã được cấp). Đối với việc trừ đất 5% của hộ gia đình ông H sau khi kiểm tra hồ sơ sổ sách thể hiện tại quyền sổ ghi (03 Lang Khê, tờ số 3 có tài liệu kèm theo). Mục diện tích trong thổ cư/cột đất thừa trừ diện tích giao m2 ghi 72/Cột quy sào thuốc ghi 3.
Ảnh minh họa phiên tòa
Như vậy, về nguồn gốc quyền sử dụng đất thể hiện tại hồ sơ 299 thửa đất số 71, tờ bản đồ số 07, diện tích 690m2, loại đất "T cư", tên chủ sử dụng là chồng bà Tr nhưng sau đó năm 1984, do hoàn cảnh kinh tế khó khăn gia đình bà chuyển về thành phố CL làm ăn sinh sống. Năm 1986, vợ chồng bà Tr có thoả thuận chuyển nhượng cho ông Phạm Văn Đ ½ diện tích thửa đất có nhà và công trình trên đất. Các bên không xác định cụ thể diện tích đã bán và không tranh chấp. Đối với phần diện tích đất vườn còn lại bà Tr xác định để sau này về già sẽ về xây dựng nhà ở. Gia đình bà không chuyển nhượng, tặng cho hoặc ủy quyền cho người nào làm thủ tục đối với phần diện tích còn lại. Trong khi, ông Trương Văn H xác định năm 1986, gia đình ông H đổi thửa đất này với ông Đ. Khi đổi đất các bên không xác định diện tích cụ thể, tuy nhiên sau đó kê khai để cấp GCNQSDĐ là 472m2. Đối với phần diện tích đất mà bà Tr khởi kiện khoảng năm 1987-1988, Ủy ban nhân dân xã AL về từng thôn để đăng ký lại đất ở của các hộ. Khi đó, gia đình ông H đang sinh sống trên thửa đất của nhà bà Tr đã bán một phần, phần còn lại do gia đình bà Tr đang nợ sản phẩm của Hợp tác xã quá nhiều nên đã bỏ đi nơi khác sinh sống nên phần đất còn lại không có chủ. Ủy ban nhân dân xã AL cho gia đình ông H sử dụng vào đất 5%. Sau khi nhận đất, ông Hộ đã tìm đến gia đình bà Tr và trao đổi với vợ chồng bà Tr về việc địa phương đang kê khai lại đất ở và dồn dịch phần đất thừa, tuy nhiên gia đình bà Tr không có ý kiến gì. Năm 1989, xã AL có chủ trương tách hộ cho các gia đình đông khẩu, gia đình ông làm đơn và được Ủy ban nhân dân xã giao mảnh đất cho gia đình ông (thửa đất mà bà Tròn đang khởi kiện). Sau đó, mẹ đẻ ông là Nguyễn Thị H đã dựng nhà và sinh sống trên thửa đất đó. Năm 1992, cụ H chết. Thửa đất được gia đình thống nhất cho chị gái ông là bà Trương Thị T và đứng tên con trai bà T là anh Trần Xuân Thi. Năm 2003, anh Thi chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Trương Công S, ông S đã tặng cho hai con trai là ông Kh và ông T và được cấp GCNQSDĐ. Như vậy, thực tế từ năm 1986 đến nay hơn 30 năm gia đình nguyên đơn bà Tr bỏ mặc không quản lý thửa đất, không nộp thuế. Bản thân bà Tr không xác định được chính xác diện tích đã bán cho ông Đ, diện tích còn lại là bao nhiêu. Gia đình bà Tr chuyển đi nơi khác sinh sống nhưng vẫn trong cùng một tỉnh, thường xuyên về quê nhưng không có ý kiến về việc sử dụng đất của gia đình cụ H, anh Kh và T.
Như vậy, gia đình cụ H đã quản lý sử dụng đất liên tục từ trước năm 1990, việc sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận và đã được đăng ký sử dụng đất, có tên trong bản đồ địa chính năm 1993 đến nay hơn 30 năm (không còn tên vợ chồng bà Tr). Bản thân gia đình ông H bị trừ 72m2 đất nông nghiệp vào phần đất vườn. Thời điểm đó cụ H đang sống cùng ông H. Căn cứ theo Điều 236 Bộ luật dân sự xác định người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó. Phù hợp với tinh thần án lệ số 33/2020/AL. Ngoài ra Điều 5, Điều 9 Luật Đất đai năm 1987; Điều 5 Luật Đất đai 2005 và Điều 13 Luật Đất đai 2013 xác định cá nhân được Nhà nước cấp đất nhưng không sử dụng để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài, trong quá trình sử dụng đất đã xây dựng nhà ở ổn định, đăng ký kê khai quyền sử dụng đất và đã được cấp GCNQSDĐ. Do đó, xác định diện tích quyền sử dụng đất 365,4m2 đã được xác lập quyền sử dụng cho cụ H. Sau đó, cụ H tặng cho anh Thi. Anh Thi đã chuyển nhượng cho gia đình ông Kh, ông Tưởng. Do vậy, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tr đòi lại 365,4m2 đất hiện do gia đình anh Kh và anh T quản lý và xác định anh T và anh Kh có quyền sử dụng đất diện tích đất trên là có căn cứ.
Vì vậy, thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án trên góp phần tuyên truyền đến nhân dân đối với các quy định về đất đai, quyền sở hữu bất động sản để người dân chủ động quản lý hạn chế những tranh chấp kiện đòi về đất đai tương tự như vụ án trên.
                                                                                                                                             Phan Thị Thu Huyền
                                                                                                                                    Phòng 9, VKSND tỉnh Hải Dương
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây