Một số điểm mới của bộ luật hình sự cần chú ý
Chủ nhật - 29/05/2016 22:01
I. Một số quy định mới đối với người chưa thành niên phạm tội
1. Quy định thu hẹp những tội mà độ tuổi từ 14 đến dưới 16 phải chịu TNHS.
BLHS năm 2015 có nhiều quy định mới có lợi cho người chưa thành niên phạm tội hơn so với BLHS 1999 như: bỏ một số tội phạm mà người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi theo BLHS 1999 phải chịu TNHS. Chỉ phạm vào những tội quy định tại khoản 2 điều 12 BLHS mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Xóa án tích
Theo quy định của BLHS 1999 thì án đã tuyên đối với người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi thì không tính tái phạm tái phạm nguy hiểm; hoặc Người trên 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội thì thời gian xóa án tích bằng 1/2 thời gian xóa án tích của người đã thành niên.
BLHS 2015 vẫn giữ nguyên đường lối trên đối với người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi phạm tội, quy định rõ hơn ở điều 107 BLHS xóa án tích. Đồng thời quy định mới: Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý thì được coi là không có án tích. Đây là một quy định có lợi cho người chưa thành niên phạm tội, cần nắm vững vì sẽ áp dụng nhiều trên thực tiễn để tính tái phạm tái phạm nguy hiểm.
Ngoài ra Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng thì đương nhiên xóa án tích nếu trong thời hạn 3 năm từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án. (điều 107 BLHS) Quy định này bất lợi hơn so với quy định BLHS1999 đối với người bị kết án từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
3. Người chưa thành niên từ đủ 14 đến 16 tuổi phạm tội mà BLHS 1999 không coi là tội phạm, nhưng BLHS 2015 coi là tội phạm
BLHS năm 2015 cũng có nhiều quy định bất lợi đối với người chưa thành niên phạm tội, hình sự hóa những quy định trước đây không là tội phạm.
Cụ thể: Theo quy định của Điều 12 BLHS năm 1999 với những tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng thì “người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi” không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Nhưng tại khoản 2 điều 12 BLHS năm 2015 quy định về Tuổi chịu TNHS thì:
1…
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây: …”
Với quy định trên của BLHS năm 2015, thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS cả về tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng.
Cụ thể so với quy định BLHS 1999 thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS thêm đối với 3 tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng: khoản 1, 2,3 điều 134 tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; khoản 1 điều 141 tội hiếp dâm; khoản 1điều 169 tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
4. Quy định BLHS 2015 về xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội còn có một số quy định chưa rõ ràng, bất cập.
Tại Điều 91BLHS 2015 về Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định:
1….
2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
a)
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
Với quy định tại điểm b khoản 2 điều 91 BLHS 2015 đối chiếu với khoản 2 điều 12 BLHS, ta thấy quy định này vừa thiếu và vừa bị thừa.
Thiếu vì: với quy định tại điểm b khoản 2 điều 91 BLHS 2015 thì Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý ….thì mới được xem xét có thể miễn TNHS, còn Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng thì không được hưởng những quy định có lợi của khoản 2 điều 91 BLHS 2015 (tức có thể được miễn TNHS). Điều này thật vô lý trong khi Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng một số tội như đã nêu ở khoản 2 điều 12 BLHS 2015 vẫn phải chịu TNHS nhưng không được hưởng những nguyên tắc có lợi về xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thừa quy định “ do cố ý” vì: rà soát các tội phải chịu TNHS theo quy định tại khoản 2 điều 12 BLHS 2015 thì không có người nào từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà phải chịu TNHS về tội do vô ý nên nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà phạm tội thì đều là tội cố ý ( điều luật không cần phải nhắc lại là do cố ý).
II/ Một số quy định mới khác
1. Đối với tội phạm do vô ý: có rất nhiều quy định mới có lợi hơn so với quy định BLHS 1999 khi xử lý đối với người vô ý phạm tội
- Có thể được miễn TNHS: Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. ( khoản 3 điều 29 BLHS căn cứ miễn TNHS).
- Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng. ( Khoản 2 điều 38 BLHS tù có thời hạn).
- Không bị coi là có án tích: Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.( khoản 2 điều 69 BLHS Xóa án tích.
2. Một số hành vi thường xảy ra trước đây coi là tội phạm nay không coi là tội phạm ( chưa được liệt kê theo Nghị quyết 109/QH/2015):
Hành vi đánh bạc với tổng số tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc dưới 5 triều đồng ( mà chưa bị kết án hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc, gá bạc) thì không bị TCTNHS ( trước chỉ cần đánh bạc với tổng số tiền( hiện vật) trên 2 triệu đồng là bị TCTNHS. Tương ứng với hành vii đánh bạc thì hành vi tổ chức đánh bạc, gá bạc hai chiếu bạc trở lên mà tổng số tiền( hiện vật) đánh bạc dưới 5000.000 đ mà không thuộc các trường hợp khác Khoản 1 điều 322 BLHS thì cũng không bị TCTNHS.