Tìm hiểu về vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại Bộ luật dân sự

Thứ tư - 21/08/2019 05:29

Tìm hiểu về vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại Bộ luật dân sự

Theo quy định tại Điều 116 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch với những mục đích và động cơ nhất định. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định (Điều 117 BLDS 2015). Giao dịch dân sự vô hiệu là những giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện quy định tại Điều 117, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều 122 BLDS 2015). Do đó những giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự sẽ bị coi là vô hiệu. Trên thực tế những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự có ‎ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi khi các chủ thể tiến hành tố tụng áp dụng giải quyết những tranh chấp liên quan đên giao dịch dân sự.


Ảnh minh họa (Nguồn: internet)

Về hậu quả pháp lý đối với những giao dịch dân sự vô hiệu: Điều 131 BLDS 2015 quy định “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập; Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả…”. Điều này có nghĩa là nghĩa vụ của các bên phát sinh từ chính giao dịch vô hiệu, chứ không phải phát sinh từ giao dịch. Từ khi giao dịch dân sự được xác lập đến khi phải hoàn trả do giao dịch dân sự vô hiệu, tài sản có thể làm phát sinh hoa lợi, lợi tức. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì cần phải giải quyết những hoa lợi, lợi tức này. Đối với vấn đề này BLDS 2005 chỉ quy định “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu”. Quy định này cho rằng vấn đề hoa lợi, lợi tức là vấn đề khôi phục lại tình trạng ban đầu. Tuy nhiên trên thực tế ở thời điểm trước khi giao dịch dân sự được xác lập thì hoa lợi, lợi tức chưa tồn tại nếu bên nhận tài sản phải hoàn trả hoa lợi, lợi túc cho bên giao tài sản thì tài sản đã hơn tình trạng ban đầu. Do vậy quy định này không hợp lý. Khắc phục điều đó BLDS 2015 đã tách vấn đề hoa lợi, lợi tức ra khỏi quy định “khôi phục lại tình trạng ban đầu” thành một khoản riêng để giải quyết (Khoản 3 Điều 131) “bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó”. Điều này có nghĩa là việc hoàn trả hay không hoàn trả hoa lợi, lợi tức phụ thuộc vào sự ngay tình hay không ngay tình của bên nhận tài sản. Khoản 4 Điều 131 BLDS 2015 quy định: Khi giao dịch dân sự vô hiệu, nếu các bên có yêu cầu giải quyết bồi thường thì Tòa án có trách nhiệm xác định thiệt hại, theo nguyên tắc một bên chỉ phải bồi thường cho bên kia khi có thiệt hại xảy ra, không có thiệt hại thì không có trách nhiệm bồi thường.Việc xác định giá của tài sản trong giao dịch cũng là một vấn đề đáng lưu ý để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Về nguyên tắc, người có lỗi gây ra thiệt hại phải bồi thường. Trong đó, có thể tồn tại lỗi của một bên hoặc lỗi của hai bên. Trong trường hợp tồn tại lỗi của hai bên làm cho giao dịch dân sự vô hiệu thì phải xác định mức độ lỗi của các bên để thấy được thiệt hại cụ thể để quy trách nhiệm bồi thường tương ứng theo lỗi của mỗi bên.

Vấn đề “bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu” Điều 133 BLDS 2015 quy định như sau:

 Thứ nhất: Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này.

Thứ hai: Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu. Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.

Thứ ba: Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.

Về thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, Điều 132 BLDS 2015 quy định: Thời hạn tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là hai năm, kể từ ngày giao dịch được xác lập đối với các giao dịch dân sự được xác lập do người không đủ năng lực hành vi; do nhầm lẫn; do bị đe dọa, lừa dối; do không tuân thủ các quy định bắt buộc về hình thức. Tuy nhiên đối với trường hợp vô hiệu do không tuân thủ các quy định bắt buộc về hình thức thì xem xét và “buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn nhất định”. Việc ấn định thời hạn do Toà án quyết định căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể. Việc buộc các bên phải thực hiện và đưa ra thời hạn thực hiện quy định về hình thức của giao dịch thuộc thẩm quyền và là nghĩa vụ của toà án. Chỉ khi các bên trong giao dịch không thực hiện và hoàn tất các quy định về hình thức của giao dịch trong thời hạn do toà án quyết định thì giao dịch mới vô hiệu. Những giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; do giả tạo thời hạn tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế (khoản 3 Điều 132).

                                                                                                                 Vũ Thị Lệ, Nguyễn Thị Hương
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây