Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS

Thứ ba - 25/02/2020 20:57

Quy định pháp luật

Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (BLHS); là một trong các căn cứ áp dụng khi quyết định hình phạt đối với người bị kết án (bị cáo), theo quy định tại Điều 50 BLHS.

Văn bản giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của TAND tối cao (Công văn 01), người bị kết án được áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự  khi đủ có các điều kiện sau: (1) Từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào và đang bị xét xử về tội ít nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù).(2)  Từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào và đang bị xét xử về tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm.

Không được coi là phạm tội lần đầu trong các trường hợp sau: (1) Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích, (2) Nếu trước đó chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 27 BLHS),(3) Nếu trước đó chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau(điểm 4 mục I);

Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 (Nghị quyết 01) của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của BLHS về tha tù trước hạn có điều kiện, Được coi là phạm tội lần đầu nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:a) Trước đó chưa phạm tội lần nào;b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự;c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích (điểm 2 Điều 2)

Nghị quyết số 01 là văn bản quy phạm pháp luật, Công văn 01 là văn bản hướng dẫn giải đáp pháp luật thông qua thực tiễn xét xử.  Hai văn bản có đối tượng điều chỉnh khác nhau (Công văn 01 điều chỉnh hoạt động áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử; Nghị quyết 01 điều chỉnh hoạt động áp dụng pháp luật trong giai đoạn thi hành án), đều có quy định Phạm tội lần đầu, nhưng khác nhau. Nếu Công văn 01 quy định Không được coi là phạm tội lần đầu nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích, thì Nghị quyết 01 lại quy định  Được coi là phạm tội lần đầu nếu trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích. Theo quy định tại Điều 69 BLHS Người bị xóa án tích coi như chưa bị kết án.

Vậy có áp dụng quy định về phạm tội lần đầu khi xét tha tù trước thời hạn cho người bị kết án tại Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP khi quyết định hình phạt đối với người bị kết án không?

Áp dụng pháp luật

Công văn 01, Nghị quyết 01 đều được áp dụng trong xét xử hiện nay, không phân biệt nhóm tội phạm, thời điểm thực hiện tội phạm, nhưng không phải trường hợp nào cũng đảm bảo “thuyết phục” trong thực tiễn:

          Trường hợp thứ nhất Nguyễn Văn A( chưa lần nào bị kết án), bị xét xử về tội Dâm ô với người dưới 16 tuổi, quy định tại khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự. Tòa án nhân dân huyện BG nhận định và áp dụng  tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng) đối với A;

          Trường hợp thứ hai  Nguyễn Văn B (chưa lần nào bị kết án), hai lần trộm cắp tài sản, bị xét xử theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, Tòa án nhân dân huyện GL vừa áp dụng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng), vừa áp dụng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự (phạm tội 02 lần trở lên) đối với B;

          Trường hợp thứ ba Tháng 12/2019 Nguyễn Văn C bị xét xử về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 BLHS. Trước đó năm 2010 A bị kết án về tội đánh bạc (số tiền đánh bạc là 3.000.000 đ), C đương nhiên được xóa án tích. Tòa án nhân dân huyện GL áp dụng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với C.

Trường hợp thứ tưTháng 12/2019 Nguyễn Văn D bị xét xử về tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 173 BLHS. Trước đó năm 2012, khi 17 tuổi B đã bị kết án về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202 khoản 2 BLHS 1999), theo quy định  Điều 107 BLHS, D được coi là không có án tích. Tòa án nhân dân huyện GL áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với D.

          Trường hợp thứ năm Nguyễn Văn E (chưa lần nào bị kết án),bị xét xử 01 lần về hai tội  Đánh bạc, quy định tại khoản 1 Điều 321 và Môi giới mại dâm, quy định tại khoản 1 Điều 328 BLHS. C có được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự không?

Trường hợp thứ sáu  Khi xét xử Nguyễn Văn F chưa lần nào bị kết án) về hành vi đưa Lợn bị dịch tả Châu Phi vào địa bàn không có dịch để bán kiếm lợi (đang giao dịch thì bị phát hiện) theo khoản 1 Điều 241 BLHS(Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật, quy định hình phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm), Tòa án áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS. Bản án không thể thuyết phục, khi dịch tả lợn Châu Phi gây thiệt hại lớn về kinh tế xã hội và hiện nay khi hiện nay dịch Covid-19 đang gây hại rất lớn về người, chưa có tuyên bố chính thức về nguồn gây bệnh, thì nhận định F phạm tội  thuộc trường hợp ít nghiêm trọng dễ gây phản ứng không tốt trong cộng đồng.

          Trường hợp thứ bảy Nghiên cứu phần thứ hai- phần các tội phạm của  Bộ luật hình sự, thấy rằng trong số 318 Điều luật (từ Điều 108 đến Điều 425), quy định từ Chương XIII đến Chương XXVI, ngoại trừ các tội tội phạm  xâm phạm an ninh quốc gia được quy định tại Chương XIII (Điều 108 đến Điều 122), các tội phạm về ma túy- chương XX (Điều 247 đến Điều 259), các tội phạm tham nhũng – Mục I chương XXIII (Điều 353 đến Điều 359) các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh- chương XXVI (Điều 421 đến Điều 425) thuộc tội phạm nghiêm trọng trở lên (trừ việc chuẩn bị phạm tội quy định tại  khoản 3 Điều 155, khoản 3 Điều 166, khoản 3 Điều 118, khoản 1 Điều 247 là tội ít nghiêm trọng), các Điều luật thuộc các Chương khác nhau đều có quy định tội ít nghiêm trọng. Như vậy nếu người bị kết án có thể được áp dụng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là rất đa dạng.

          Kiến nghị  

          Từ những phân tích trên đây, chúng tôi cho rằng cần có hướng dẫn thống nhất việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS;

          Theo đó  Tòa án nhân tối cao (Hội đồng thẩm phán), ban hành Nghị quyết hướng dẫn quy nạp các hướng dẫn tại văn bản giải đáp nghiệp vụ vào nội dung Nghị quyết. Quy định rõ các trường hợp được áp dụng, trường hợp không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đó là:

          Được coi là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng khi có đủ các điều kiện sau (1) Người phạm tội bị kết án từ 3 năm tù trở xuống.(2) Người phạm tội trước đó chưa phạm tội lần nào: (b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; (c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;(d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích.(3) Người đã bị kết án khi chưa đủ 18 tuổi được đương nhiên xóa án tích quy định tại Bộ luật hình sự;(4) Người phạm tội từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào và đang bị xét xử về tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm

Không được coi là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng khi có một trong các điều kiện sau: (1) Người phạm tội  trước đó chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.(2) Người phạm tội  trước đó chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau.(3) Phạm nhiều tội; Phạm tội nhiều lần.(4) Phạm tội gây hậu quả xấu trong xã hộinhư:  tội phạm xâm phạm tình dục, tội phạm liên quan đến dịch bệnh- môi trường, tội phạm liên quan đến tín dụng đen…

                                                                                                               Nguyễn Quang Trung
Phòng 7- VKSND tỉnh Hải Dương
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây