- Trang nhất
- Viện KSND tỉnh
- Viện KSND cấp huyện
- Tin Tức
- Nghiệp vụ
- Tin hoạt động
- Văn bản
- Lịch làm việc
- Họp không giấy
Tình huống sau đây là một ví dụ:
A là người nghiện ma túy đã nhiều năm. A có một căn nhà ở triền đê, không có vợ con và sống một mình. Khoảng 15 giờ ngày 01/6/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nhưng không có tiền mua nên A rủ B (B cũng là người nghiện ma túy) đem theo 200.000 đồng đến nhà A mua ma túy về cùng nhau sử dụng. B đồng ý và rủ thêm C (C cũng là người nghiện ma túy) đến nhà A sử dụng ma túy. C đồng ý nhưng đang bận nên hẹn sẽ đến sau. Khoảng 16 giờ cùng ngày, B đến nhà A và đưa cho A 200.000 đồng để A đi mua ma túy về sử dụng chung, đồng thời nói với A tí nữa có C đến cùng sử dụng ma túy. A đồng ý rồi cầm tiền của B đưa đi mua ma túy. Sau khi mua được ma túy, A lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy ra rồi cùng B ngồi xuống nền nhà A để sử dụng ma túy. Khi A và B đang sử dụng ma túy thì C đến cùng tham gia sử dụng ma túy. Khi A, B, C sử dụng hết số ma túy mà A mua về thì B, C bảo nhau góp mỗi người 100.000 đồng đưa cho A để A đi mua ma túy về sử dụng tiếp, A không có tiền nên không góp. Khi A chuẩn bị đi mua ma túy thì A, B, C bị cơ quan công an phát hiện, thu giữ toàn bộ vật chứng.
Với tình huống nêu trên có có nhiều quan điểm khác nhau về việc định tội danh, khung khoản áp dụng đối với A và B.
Quan điểm thứ nhất: A, B không phạm tội
Vì căn cứ Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của HĐTP Tòa án tối cao Mục II. 2. c, đ quy định:
c. Trường hợp nhiều người nghiện ma túy cùng góp tiền mua chất ma túy để sử dụng trái phép và bị bắt giữ nếu... tổng trọng lượng chất ma túy chưa đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này, thì đối với người nào có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội sử dụng trái phép chất ma túy, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép chất ma túy.
đ. Người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác cùng sử dụng trái phép chất ma túy tại địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, đối với người nào có đầy đủ yếu tố cấu thành tội sử dụng trái phép chất ma túy, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép chất ma túy"
BLHS 1999 đã bỏ tội sử dụng trái phép chất ma túy, vì vậy những người này đều là người nghiện góp tiền mua ma túy hoặc cho người khác ma túy, cho người khác sử dụng ma túy tại địa điểm mình quản lý nên không phạm tội. Đối tượng nghiện ma túy hiện nay nhiều nên quan điểm của Nghị quyết 02/2003 phù hợp thực tế phù hợp với về tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm theo Điều 8 Bộ luật hình sự, tránh hình sự hóa hành vi vi phạm.
Quan điểm thứ 2: A phạm tội Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm d khoản 2 Điều 256 BLHS, B không phạm tội.
Bởi Nghị quyết 02/2003 của HĐTP Tòa án tối cao nêu trên đến nay hết hiệu lực; căn cứ, Công văn 02/CB-TATC ngày 02/8/2021 của Tòa án tối cao, Văn bản số 5442/VKSTC-V14 ngày 30/11/2020 của Vụ 14 Viện KSND tối cao và Thông báo rút kinh nghiệm số 55 ngày 26/8/2021 của Viện kiểm sát cấp cao tại Hà Nội: Người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác chất ma túy để họ cùng sử dụng tại địa điểm thuộc quyền quản lý của mình thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.
Quan điểm thứ ba: A phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS, B đồng phạm với A về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS. Bởi căn cứ Công văn 89 ngày 30/6/2020, Công văn 02 ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân tối cao, Công văn 5442/VKSTC-V14 ngày 30/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì nguồn gốc số ma túy là của A (A chuẩn bị) và B (nguồn tiền của B), A đưa chất ma túy vào cơ thể B và B đưa chất ma túy vào cơ thể A, ngoài ra A và B còn đưa chất ma túy vào cơ thể C nên A và B đồng phạm với nhau về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS.
Quan điểm thứ tư (cũng là quan điểm của tác giả): A phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS, B đồng phạm với A về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 255 BLHS. Bởi lẽ nguồn gốc ma túy mà A, B, C sử dụng là của B (nguồn tiền) và A (chuẩn bị). A có hành vi cung cấp chất ma túy, ngoài ra còn cung cấp địa điểm, công cụ sử dụng cho B và C (cho 2 người) nên hành vi của A cấu thành tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS. B cùng với A cung cấp chất ma túy nên B đồng phạm với A về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, tuy nhiên B chỉ đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể C (1 người) nên B chỉ phạm tội ở khoản 1 Điều 255 BLHS (Vì nguồn gốc ma túy là của A và B).
Trên đây là bài viết trao đổi nghiệp vụ, rất mong nhận được các ý kiến của đồng nghiệp, cũng như hướng dẫn thống nhất của cấp có thẩm quyền để áp dụng
Hiện nay tội phạm về Tổ chức trái phép chất ma túy và tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy ma túy bị khởi tố xử lý trong trường hợp tương tự như tình huống trên nhiều. Có nhiều quan điểm trong việc định tội, định khung hình phạt khác nhau, việc thống nhất quan điểm để áp dụng phù hợp quy định pháp luật và phù hợp thực tế có ý nghĩa rất quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy đảm bảo sự nghiêm minh và sự công bằng của pháp luật ./.
Tống Thị Ngọc Ánh VKSND huyện Cẩm Giàng |
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
© 2017 Bản quyền của VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG.