“Chất ma túy” là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành. Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (Bộ luật hiện hành) và tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01.7.2016).
Trong giai đoạn chuyển tiếp giữa việc thực hiện Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015 có nhiều nội dung cần phải lưu ý tuy nhiên trong nội dung bài viết xin đề cập đến một số điểm về khung hình phạt trong tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Lấy ví dụ trong một trường hợp cụ thể: “
Vào 15 giờ ngày 06/6/2016 tại cổng bến xe X ở số 113 đường Y, phường Z, thành phố T; Nguyễn Văn A bị Cơ quan điều tra phát hiện bắt quả tang đang cất giấu trái phép trong túi quần 01 gói nilon bên trong gói có chứa các viên màu trắng dạng viên nén là Methamphetamine, tổng trọng lượng 10gam để sử dụng”. Vụ án đã được Cơ quan điều tra thành phố T khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 và đang trong giai đoạn điều tra.
Theo quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999:
“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: …m) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam…”Như vậy, theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì A phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: …2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:…g) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam…” Như vậy, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 thì A phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015.
(Methamphetamine - ảnh minh họa)
Vấn đề trao đổi: Tổng trọng lượng Methamphetamine thu giữ của A là 10gam, vụ án đang được Cơ quan điều tra thành phố T điều tra về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999. Tuy nhiên, nếu vụ án được kết luận điều tra, truy tố, xét xử sau ngày 01.7.2016 thì Điều luật, khung hình phạt áp dụng đối với bị can A như thế nào?
Ý kiến thứ nhất: So sánh về khung hình phạt cao nhất tại Điều 194 BLHS năm 1999 thì khung hình phạt cao nhất là tử hình trong khi đó Điều 249 BLHS năm 2015 có khung hình phạt cao nhất là chung thân. Do đó Điều 249 BLHS năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn Điều 194 BLHS năm 1999 nên khi truy tố, xét xử đối với A cần áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 để truy tố, xét xử A với tội danh Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, do mức hình phạt tại khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 là từ 2 năm đến 7 năm trong khi đó mức hình phạt tại khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015 là từ 5 năm đến 10 năm nên khi quyết định hình phạt đối với A cần áp dụng mức hình phạt theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo.
Ý kiến thứ hai: Do vụ án được phát hiện, điều tra trước ngày 01.7.2016 đồng thời mức hình phạt tại khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 là từ 2 năm đến 7 năm trong khi đó mức hình phạt tại khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015 là từ 5 năm đến 10 năm nên khi truy tố, xét xử đối với A thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999.
Trên đây là một số trao đổi liên quan đến tội Tàng trữ trái phép chất ma túy trong giai đoạn chuyển tiếp giữa việc thực hiện Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015 xin đưa ra để cán bộ, Kiểm sát viên trong ngành cùng cho ý kiến./.