Từ thực tiễn kiểm sát việc giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình hiện nay, thấy cần thống nhất hướng giải quyết trường hợp nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn nhưng không biết địa chỉ nơi cư trú của bị đơn ở đâu. Đối với trường hợp này, hiện nay vẫn tồn tại một số quan điểm khác nhau trong việc áp dụng pháp luật.
Quan điểm thứ nhất: Tòa án ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Quan điểm này dựa trên quy định tại điểm c khoản 2 Điều 6 Nghị Quyết số 04/2017/NQ - HĐTP ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, quy định: … c) Trường hợp không thuộc điểm a, b khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.” Khoản 4 Điều 6 Nghị quyết nêu trên quy định: Trường hợp vụ án bị đình chỉ giải quyết theo hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này thì theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 BLTTDS 2015, người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án đó khi cung cấp được đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện…
Như vậy, nếu vụ án ly hôn thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04 ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán TATC, tức là sau khi thụ lý vụ án, nguyên đơn không xác định được địa chỉ của bị đơn và đã yêu cầu Tòa án xác minh địa chỉ của bị đơn mà không rõ hiện bị đơn đang ở đâu (trừ trường hợp xác minh bị đơn đã xuất cảnh sang nước khác) thì Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án khi cung cấp được đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc của người bị kiện”.
Tuy nhiên, nếu áp dụng hướng dẫn nêu trên sẽ dẫn đến tình trạng gây khó khăn cho đương sự trong việc giải quyết vụ án ly hôn. Khi mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân đã trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, một bên vợ hoặc chồng muốn ly hôn nhưng bên còn lại vì những động cơ khác nhau muốn cản trở, gây khó khăn nên cố tình giấu địa chỉ, không nhận các văn bản tố tụng của Tòa án sẽ gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
Quan điểm thứ hai: Tòa án hướng dẫn làm thủ tục yêu cầu tuyên bố một người mất tích
Khi xác định bị đơn đã bỏ đi khỏi địa phương trước thời điểm thụ lý và không biết nơi cư trú mới. Để đảm bảo sự chặt chẽ trong việc áp dụng pháp luật cũng như đảm bảo quyền lợi cho cả nguyên đơn và bị đơn. Tòa án cần hướng dẫn nguyên đơn rút đơn khởi kiện sau đó làm thủ tục yêu cầu tuyên bố một người mất tích, trường hợp nếu nguyên đơn không rút đơn thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ điểm c khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Quan điểm này cũng tồn tại sự bất cập là trên thực tế đặt ra có những trường hợp bị đơn không có mặt tại địa phương nhưng thỉnh thoảng vẫn về thăm con và liên lạc với gia đình nên không thể đủ chứng cứ chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố mất tích. Do vậy, nguyên đơn sẽ tiếp tục gặp khó khăn trong việc xin ly hôn. Việc giải quyết vụ án ly hôn của Tòa án sẽ phải kéo dài, mất nhiều thời gian và chi phí của đương sự.
Quan điểm thứ ba: Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Căn cứ điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 quy định: “Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung”.
Do đó, trong trường hợp không thể xác định được nơi cư trú của bị đơn thì tòa án sẽ không được đình chỉ giải quyết vụ án, không yêu cầu nguyên đơn rút đơn để làm thủ tục yêu cầu tuyên bố mất tích mà phải tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Trong trường hợp tòa không thể xác định được nơi cư trú của bị đơn, không tống đạt được các văn bản tố tụng của của vụ án thì tòa án thực hiện việc niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định tại các Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định tại Điều 180 Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi thực hiện xong các thủ tục niêm yết công khai và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng mà bị đơn không có mặt để làm viêc thì tòa án có thể xét xử vắng mặt bị đơn.
Quan điểm của tác giả cho rằng cần thiết phải áp dụng quan điểm thứ ba trong việc giải quyết tình trạng không rõ nơi cư trú của bị đơn. Việc giải quyết nêu trên có căn cứ pháp luật, phù hợp với tình hình thực tiễn, đảm bảo quyền lợi cho cả nguyên đơn và bị đơn.
|
Nguyễn Quang Hưng
VKSND huyện Thanh Hà |