Vướng mắc khi kiểm sát Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo điểm đ khoản 1 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự

Thứ sáu - 14/01/2022 02:42

Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án án Kinh doanh thương mại về "Tranh chấp hợp đồng tín dụng thụ lý số 04/2014/TLST-KDTM ngày 11 tháng 11 năm 2014 về việc Tranh chấp hợp đồng tín dụng, giữa: Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Viettin Bank). Địa chỉ : Số 108 đường Trần Hưng Đạo, Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Bị đơn: Công ty cổ phần thép An Phú. Địa chỉ: Số 8, ngõ Ngái, khu Hạ, xã Tráng Liệt (nay là thị trấn Kẻ Sặt), huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Công ty đã thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thửa đất số 27b, tờ bản đồ số 03, diện tích 1.324 m2 ở thôn Lai Sơn, xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; thửa đất số 06, tờ bản đồ số 04, diện tích 2.815m2 thôn Tiên Chu, xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà nội; thửa đất số 86, tờ bản đồ số 01, diện tích 221m2 thôn Ngô Đạo, xã Tân Hưng, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội để vay tiền 14.843.347.056 đồng của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam với mục đích để kinh doanh và cam kết trả gốc và lãi đúng thời hạn. Do không trả nợ đúng hạn, khi xảy ra tranh chấp các bên khởi kiện ra Tòa án "Nơi có trụ sở của bị đơn" để giải quyết. Trong quá trình Tòa án huyện thụ lý, giải quyết (do tài sản thế chấp ở nhiều nơi đã chuyển nhượng qua nhiều người), Tòa án căn cứ vào Điều 106 BLTTDS ra văn bản đề nghị UBND xã Bắc Sơn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà nội cung cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Phú; Văn phòng đăng ký đất đai Thành phố Hà Nội - Chi nhánh huyện Sóc Sơn cung cấp hợp đồng chuyển nhượng, các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho người nhận chuyển nhượng để làm căn cứ giải quyết vụ án. Trong khi đợi UBND xã Bắc Sơn huyện Sóc Sơn TP Hà Nội, Văn phòng đăng ký đất đai Thành phố Hà Nội - Chi nhánh huyện Sóc Sơn cung cấp chứng cứ. TAND huyện căn cứ các Điều 214, 215, 219 của BLTTDS ra Quyết định Tạm đình chỉ vụ án (số 01 ngày 11/3/2020).

Nhưng quá thời hạn theo quy định tại tại khoản 3 Điều 106 BLTTDS (15 ngày) Văn phòng đăng ký đất đai không cung cấp và không có văn bản trả lời cho Tòa án nhân dân huyện Bình Giang.

          Tại điểm đ khoản 1 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự quy định:

          "1. Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi có một trong các căn cứ sau đây:

          đ) Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp,ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án";

          Tại khoản 3 Điều 106 BLTTDS quy định:

          " 3. Trường hợp có yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

        Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Việc xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là lý do miễn nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án".

        Trong vụ án nêu trên Văn phòng đăng ký đất đai Thành phố Hà Nội - Chi nhánh huyện Sóc Sơn; UBND xã Bắc Sơn huyện Sóc Sơn thiếu trách nhiệm, chậm trễ trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Quá trình kiểm sát Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án Viện kiểm sát đã có nhiều văn bản yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bình Giang ra văn bản đôn đốc trả lời, Tòa án đã có nhiều văn bản đề nghị 02 đơn vị trên phúc đáp yêu cầu của Tòa án nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả.

          Tại khoản 1Điều 495 BLTTDS quy định:

          1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thi hành quyết định của Tòa án về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang quản lý, lưu giữ thì có thể bị Tòa án xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

          Điều 498 BLTTDS quy định:

          Hình thức xử phạt, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử phạt hành chính đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự được thực hiện theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính và pháp luật có liên quan.

          Điều 48. Luật  xử lý vi phạm hành chính quy định

          1. Thẩm phán chủ tọa phiên toà có quyền:

          a) Phạt cảnh cáo;

          b) Phạt tiền đến 1.000.000 đồng;

          c) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản này.

          2. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc phá sản có quyền:

          a) Phạt cảnh cáo;

          b) Phạt tiền đến 5.000.000 đồng;

          c) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản này;

          d) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, i và k khoản 1 Điều 28 của Luật này.

          3. Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự khu vực có quyền:

         a) Phạt cảnh cáo;

         b) Phạt tiền đến 7.500.000 đồng;

         c) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản này.

        4. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Chánh tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Chánh tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao có quyền:

         a) Phạt cảnh cáo;

         b) Phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này;

         c) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính;

        d) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, i và k khoản 1 Điều 28 của Luật này.

          Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn việc xử lý cơ quan, tổ chức cá nhân không cung cầp hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án không đúng thời hạn theo quy định tại khoản 3 Điều 106 BLTTDS từ đó có những vụ kiện kéo dài nhiều năm, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Từ vướng mắc nêu trên theo tôi đề nghị liên ngành Trung ương cần có hướng dẫn về việc xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án không đúng thời hạn theo quy định tại khoản 3 Điều 106 BLTTDS để việc kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại đảm bảo đúng quy định của pháp luật, quyền lợi của các đương sự được bảo đảm.

Phạm Văn Ngoan
VKSND huyện Bình Giang

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây