Tìm hiểu về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử Quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương
Thứ tư - 13/04/2016 23:07
Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương theo Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân:
Hội đồng bầu cử quốc gia (quy định từ Điều 12 đến Điều 20) do Quốc hội thành lập, có từ mười lăm đến hai mươi mốt thành viên gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các uỷ viên là đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số cơ quan hữu quan. Chủ tịch Hội đồng bầu cử Quốc gia do Quốc hội bầu, miễn nhiệm theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Các Phó Chủ tịch và các Uỷ viên Hội đồng bầu cử quốc gia do Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia. Hội đồng bầu cử Quốc gia có sáu nhiệm vụ, quyền hạn chung là: (1) Tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; (2) Chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp; (3) Chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử; (4) Chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong cuộc bầu cử; (5) Kiểm tra, đôn đốc việc thi hành pháp luật về bầu cử; (6) Quy định mẫu hồ sơ ứng cử, mẫu thẻ cử tri, mẫu phiếu bầu cử, nội quy phòng bỏ phiếu, các mẫu văn bản khác sử dụng trong công tác bầu cử. Hội đồng bầu cử Quốc gia thành lập các tiểu ban để giúp Hội đồng bầu cử quốc gia thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong từng lĩnh vực.
Các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương (quy định từ Điều 21 đến Điều 28), gồm: (1) Uỷ ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Uỷ ban bầu cử ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Uỷ ban bầu cử ở xã, phường, thị trấn; (2) Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ban bầu cử Hội đồng nhân dân cấp huyện, Ban bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã; (3) Tổ bầu cử. Việc thành lập Uỷ ban bầu cử ở tỉnh, Uỷ ban bầu cử ở huyện do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập sau khi thống nhất Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, thời gian thành lập chậm nhất là 105 ngày trước ngày bầu cử (Điều 22). Việc thành lập Ban bầu cử ở mỗi đơn vị bầu cử do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Uỷ ban cấp xã quyết định thành lập sau khi thống nhất Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, thời gian thành lập chậm nhất là 70 ngày trước ngày bầu cử (Điều 24). Việc thành lập Tổ bầu cử ở mỗi khu vực bỏ phiếu do Uỷ ban nhân cấp xã quyết định sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã, thời gian thành lập chậm nhất là 50 ngày trước ngày bầu cử (Điều 25).
Ủy ban bầu cử có nhiệm vụ, quyền hạn: chỉ đạo việc chuẩn bị và tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội ở các đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội trên địa bàn; chỉ đạo việc tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành pháp luật về bầu cử; chỉ đạo thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử; chỉ đạo thực hiện công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong cuộc bầu cử; nhận và xem xét hồ sơ của người ứng cử theo quy định; lập danh sách người ứng cử; nhận tài liệu và phiếu bầu cử và phân phối cho các Ban bầu cử; chỉ đạo, kiểm tra việc lập và niêm yết danh sách cử tri; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền; nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử của các Ban bầu cử; lập biên bản xác định kết quả bầu cử; báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử; tổ chức việc bầu cử lại, bầu cử thêm (nếu có) (Điều 23).
Ban bầu cử có nhiệm vụ, quyền hạn: kiểm tra, đôn đốc việc thi hành quy định của pháp luật về bầu cử; kiểm tra, đôn đốc việc lập, niêm yết danh sách cử tri và việc niêm yết danh sách những người ứng cử; chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc bố trí các phòng bỏ phiếu và công việc bầu cử ở các phòng bỏ phiếu; nhận và phân phối tài liệu, phiếu bầu cử; nhận, tổng hợp và kiểm tra biên bản kiểm phiếu bầu cử; làm biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử; giải quyết các khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền; báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo quy định; chuyển hồ sơ, tài liệu về bầu cử đại biểu Quốc hội đến Ủy ban bầu cử ở tỉnh; và tổ chức thực hiện việc bầu cử lại, bầu cử thêm (nếu có) (Điều 24).
Tổ bầu cử có nhiệm vụ, quyền hạn: phụ trách công tác bầu cử trong khu vực bỏ phiếu; bố trí phòng bỏ phiếu, chuẩn bị hòm phiếu; nhận tài liệu và phiếu bầu từ Ban bầu cử; phát thẻ cử tri, phiếu bầu có đóng dấu của Tổ bầu cử cho cử tri; thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu; bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh nội quy phòng bỏ phiếu; giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử theo thẩm quyền; kiểm phiếu và lập biên bản kết quả kiểm phiếu để gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã; báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo quy định; tổ chức thực hiện việc bầu cử lại, bầu cử thêm (nếu có) (Điều 25).
Nguyên tắc hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia và của các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương là hoạt động theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Các cuộc họp được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham dự; các quyết định được thông qua khi có quá nửa số thành viên biểu quyết tán thành. Cơ quan có thẩm quyền thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử có quyền trưng tập cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội để giúp việc (Điều 26). Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân không được làm thành viên Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử ở đơn vị bầu cử mà mình ứng cử ( Điều 27).
Ủy ban bầu cử ở tỉnh, Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Tổ bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại biểu Quốc hội sau khi Hội đồng bầu cử quốc gia kết thúc việc tổng kết công tác bầu cử đại biểu Quốc hội trong cả nước và công bố kết quả bầu cử Quốc hội. Ủy ban bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sau khi Ủy ban bầu cử đã trình báo cáo tổng kết cuộc bầu cử và hồ sơ, tài liệu về bầu cử tại kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khoá mới. Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Tổ bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sau khi Ủy ban bầu cử kết thúc việc tổng kết công tác bầu cử và công bố kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 28)./.