Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự tranh chấp di sản thừa kế

Thứ hai - 21/12/2020 03:47

Vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương đã phát hành kháng nghị phúc thẩm dân sự số 01 ngày 15/12/2020. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo hướng hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2020/DS-ST ngày 01/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Nội dung vụ án: Cụ Vũ Như Huynh và cụ Đinh Thị Quỵnh sinh được 05 người con, gồm các ông: Vũ Như Doãn, Vũ Tiến Ánh, Vũ Văn Doan, Vũ Như Phức, Vũ Văn Phước. Hai cụ không có con nuôi, con riêng. Cụ Huynh chết năm 1988 không để lại di chúc, cụ Quỵnh chết năm 2014 có để lại di chúc nhưng di chúc không đúng quy định của pháp luật nên không có hiệu lực. Cụ Huynh và cụ Quỵnh có 03 thửa đất, gồm:

- Thửa 362 tờ bản đồ số 4, diện tích 565m2 (theo bản đồ đo vẽ năm 2005, diện tích đất trên được tách thành 3 thửa: thửa 58 có diện tích 192.8 m2; thửa 59 có diện tích 219.8m2 và thửa 74 có diện tích 95.3m2 đều thuộc tờ bản đồ số 8; tổng diện tích =507.9m2), địa chỉ thửa đất: Số 7/50 Triệu Quang Phục, phường Cẩm Thượng, thành phố Hải Dương.

- Thửa 364 tờ bản đồ số 4, diện tích 1.150m2 (theo bản đồ đo vẽ năm 2005 là thửa đất số 62 tờ bản đồ số 8 có diện tích 1.166,6m2), địa chỉ thửa đất: Số 50 Triệu Quang Phục, phường Cẩm Thượng, thành phố Hải Dương.

- Thửa đất số 118 tờ bản đồ số 04 (theo bản đồ đo vẽ năm 2005 là thửa đất số 24 tờ bản đồ số 10) có diện tích 200m2, địa chỉ thửa đất: đường Phan Đình Phùng, phường Cẩm Thượng, thành phố Hải Dương.

Nay ông Phức và ông Phước khởi kiện, đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế của bố mẹ hai ông để lại theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2020/DS-ST ngày 01/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương đã xác định các thửa đất số 362 tờ bản đồ số 4, diện tích 565m2 thửa đất số 118 tờ bản đồ số 04 diện tích 200m2 là di sản thừa kế và phân chia theo quy định của pháp luật. Đối với thửa đất số 364, tờ bản đồ số 4, diện tích 1.1150 m2(theo bản đồ đo vẽ năm 2005 là thửa đất số 62 tờ bản đồ số 8 có diện tích 1.166,6m2), địa chỉ: Số 50 Triệu Quang Phục, phường Cẩm Thượng, thành phố Hải Dương không phải là di sản thừa kế của cụ Vũ Như Huynh và cụ Đinh Thị Quỵnh. Do vậy, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Như Phức, ông Vũ Văn Phước về việc chia thừa kế đối với thửa đất số 364 tờ bản đồ số 4, địa chỉ: Số 50 Triệu Quang Phục, phường Cẩm Thượng, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Xác nhận ông Vũ Như Doãn, bà Hoàng Thị Hồng có quyền sử dụng hợp pháp thửa đất số 364 nêu trên.

Qua hoạt động kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương xét thấy: Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2020/DS - ST ngày 01/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương đã có những vi phạm sau:

1. Vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật

Đối với thửa đất số 364, bản án xác định là tài sản riêng của ông Doãn và không tiến hành phân chia là không phù hợp thực tế. Tại phần nhận định, bản án nêu: Nguồn gốc thửa đất là do cha ông để lại cho cụ Huynh và cụ Quỵnh; tại sổ mục kê, sổ đăng ký ruộng đất lập năm 1985 thì cụ Huynh là người đứng tên kê khai sử dụng đất; tại hồ sơ địa chính để cấp GCNQSDĐ năm 1991 thì cụ Quỵnh là người đứng tên chủ sử dụng đất. Song, bản án lại cho rằng: “Mặc dù cụ Huynh, cụ Quỵnh được cha ông để lại đất nhưng không sử dụng đất mà để ông Doãn sử dụng đất từ những năm 1980 đến nay.." để xác định thửa đất là tài sản riêng của ông Doãn là không có cơ sở. Vì tài liệu địa chính qua các thời kỳ cho đến năm 1994 thì thửa đất vẫn đứng tên cụ Huynh và cụ Quỵnh. Hiện chưa có tài liệu nào xác định việc cụ Huynh và cụ Quỵnh chuyển quyền sử dụng thửa đất này từ hai cụ cho ông Doãn. Còn sở dĩ ông Doãn có tên trên bản đồ năm 1995 theo địa phương xác định là do họ thấy ông Doãn đang sử dụng đất thì ghi tên ông Doãn, chứ không có tài liệu thể hiện việc chuyển quyền sử dụng.

Mặt khác, gia đình cụ Huynh có 5 người con trai và 3 thửa đất, mỗi người con tự quản lý 1 diện tích đất, hai cụ chưa phân chia đất cho riêng con nào. Đối với thửa đất 364, cụ Quỵnh khi còn sống và các con vẫn sử dụng để thả cá, cấy rau cần. Khi ông Doãn sử dụng đất, giữa cụ Quỵnh và ông Doãn đã xảy ra tranh chấp một thời gian rất dài từ năm 2002, chính quyền các cấp đã đứng ra giải quyết việc tranh chấp này nhưng chưa dứt điểm. Đồng thời cho đến nay, ông Doãn vẫn chưa được cấp có thẩm quyền cấp GCNQSD đối với thửa đất trên.

Như vậy, không có căn cứ để Bản án sơ thẩm nhận định cụ Huynh và cụ Quỵnh không sử dụng đất, để cho ông Doãn sử dụng thì trở thành tài sản riêng của ông Doãn. Việc bản án nhận định như vậy là không khách quan, không phù hợp với quy định của pháp luật về quyền tài sản, gây thiệt hại đến quyền lợi cho những người con khác của cụ Huynh và cụ Quỵnh trong vụ án.

Đồng thời, bản án sơ thẩm án dụng Án lệ số 33/2020/AL ngày 05/02/2020 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xác định thửa đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Doãn, bà Hồng; không phải là di sản thừa kế của cụ Huynh, cụ Quỵnh là áp dụng không đúng pháp luật. Vì Án lệ số 33 là áp dụng cho trường hợp cá nhân được Nhà nước cấp đất nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài từ khi được giao đất; trong quá trình sử dụng đất, người này đã tôn tạo đất, xây dựng nhà ở ổn định, đăng ký kê khai quyền sử dụng đất mà người được cấp đất không có ý kiến gì... Như vậy, Bản án sơ thẩm đã áp dụng Án lệ 03/2020/AL vào giải quyết vụ án này là không phù hợp, không đúng bản chất vụ án, đã sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, gây thiệt hại đến quyền lợi của đương sự.

2. Vi phạm trong việc phân chia di sản

Tại Biên bản ghi lời khai ngày 09/12/2015 chị Vũ Thị Thúy Ngọc (là người đại diện theo ủy quyền của ông Vũ Tiến Ánh) trình bày: Ông Ánh không đề nghị được chia đối với thửa đất số 118 tờ bản đồ số 4. Tại phiên tòa, ông Ánh và chị Ngọc vắng mặt. Như vậy, thông qua người đại diện theo ủy quyền, ông Ánh đã từ chối nhận phần di sản đối với thửa đất nêu trên. Tuy nhiên Bản án sơ thẩm vẫn xử chia cho ông Ánh được hưởng kỷ phần di sản tại thửa đất 118 là không đúng với nguyện vọng; vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự khác.

3. Bản án tuyên không rõ ràng gây khó khăn trong việc thi hành án

Theo bản đồ địa chính đo đạc năm 1985 thì 3 thửa đất mà các đương sự tranh chấp là các thửa 362, 364 và 118, tờ bản đồ số 4. Tuy nhiên đến bản đồ địa chính năm 2005 thì 3 thửa đất trên được chia thành các thửa 58, 59, 62, 74 tờ bản đồ số 8 và thửa 24 tờ bản đồ số 10.

Khi tuyên án, tại phần Quyết định của Bản án không nêu rõ các thửa 362, 364, 118 nay là thửa bao nhiêu, thuộc bản đồ nào là tuyên không rõ ràng, gây khó khăn cho việc thi hành Bản án.

4. Vi phạm trong việc xác định sai tư cách tố tụng và cấp, tống đạt thủ tục tố tụng

4.1. Tài liệu hồ sơ vụ án thể hiện, sau khi cụ Huynh chết, năm 1993 cụ Quỵnh và một số người con đã đổi một phần diện tích đất tại thửa số 362 tờ bản đồ số 4 cho gia đình bà Đinh Thị Gói giáp ranh để đất của hai gia đình được vuông. Khi đổi đất, hai gia đình không làm giấy tờ và không kê khai đăng ký với chính quyền địa phương. Việc đổi đất này ông Doãn không biết và không đồng ý. Ông Doãn yêu cầu xác định đúng diện tích đất là di sản thừa kế. Quá trình giải quyết vụ án, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xác định bà Gói tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng là xác định sai tư cách người tham gia tố tụng. Trong vụ án này bà Gói là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; đồng thời bản án không giải quyết yêu cầu trên của ông Doãn là thiếu sót.

4.2. Quá trình giải quyết vụ án, sau khi Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương chuyển vụ án đến Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã thực hiện việc cấp tống đạt đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là các ông bà Bùi Thị Mai, Đinh Hữu Sơn, Đinh Hữu Hùng, Đinh Hữu Thu và Đinh Hữu Lâm. Tuy nhiên không thực hiện được việc cấp tống đạt vì các đương sự này không có địa chỉ hoặc sai địa chỉ theo như cung cấp của bà Đinh Thị Hiên. Sau khi Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương thụ lý lại vụ án do Tòa án tỉnh Hải Dương chuyển về, quá trình giải quyết Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương đã không tiến hành xác minh địa chỉ của họ để thực hiện việc cấp tống đạt, không thu thập lời khai của những người trên là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục cấp tống đạt tố tụng, được quy định tại các Điều 97, 98, 170, 171 và 172 Bộ luật tố tụng dân sự, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của những người này.

Từ những cơ sở nêu trên, nhận thấy rằng Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2020/DS-ST, ngày 01/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương đã có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

                                                                                                        Nguyễn Văn Nhiệm, Nguyễn Quang Hưng
Viện KSND Tp Hải Dương
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây