Xác định đúng nguồn gốc đất trong việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Thứ năm - 16/01/2025 21:38
Ngày 14/1/2025, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án “Khiếu kiện quyết định hành chính về lĩnh vực quản lý đất đai”, giữa người khởi kiện: bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1960; địa chỉ: cụm dân cư số 5, thôn M, xã N, huyện N, tỉnh H và người bị kiện: UBND huyện N, tỉnh H.
Nội dung vụ án: Ngày 08/12/2023 bà Nguyễn Thị C khởi kiện yêu cầu Tòa án tỉnh Hải Dương giải quyết hủy 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được UBND huyện Nam Sách cấp cùng ngày 12/4/2021 cho bà Nguyễn Thị C thửa số 801 diện tích 202,6m2 và cấp cho anh Nguyễn Sỹ T (con trai bà C) thửa đất 802 diện tích 200,4m2 do xác định không đúng nguồn gốc đất.
Tại phiên tòa bà C cho rằng nguồn gốc, số thửa và diện tích đất ghi tại 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà và anh T là không đúng vì năm 2004 ông  Nguyễn Sỹ H (chồng bà C đã mất năm 2015), ông Nguyễn Sỹ M (em ruột ông H) và cụ Nguyễn Sỹ P (bố chồng bà C đã mất năm 2015) lập biên bản thỏa thuận có xác nhận của UBND xã N hợp nhất thửa đất số 33, 34 của ông H (được UBND huyện Nam Thanh cấp GCNQSDĐ cho ông H ngày 23/12/1996) và thửa đất số 32, tờ bản đồ số 03 diện tích 221m2 của cụ P (được UBND huyện  N cấp GCNQSDĐ cho cụ P ngày 23/12/1996) sau đó tách thành 02 thửa: 01 thửa diện tích 375m2 mang tên ông H và 01 thửa diện tích 340m2 mang tên ông M. Căn cứ vào biên bản thỏa thuận này thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà C phải là thửa 33 và 34 diện tích 375m2 đất ở và nguồn gốc là đất ông H thừa kế của cụ P. Năm 2019 bà C có làm thủ tục tách đất cho con trai là anh Nguyễn Sỹ T do vậy sau khi tách đất cho anh Tthì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải là tách ra từ thửa 33, 34 và nguồn gốc là đất ông H thừa kế của cụ P.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên đã hỏi và nhận định: Năm 2004 ông H, ông M và cụ P thỏa thuận hợp nhất và chia tách các thửa đất, tuy nhiên sau đó các bên không làm các thủ tục hợp nhất, chia tách các thửa đất trên tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền do vậy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện N cấp năm 1996 cho cụ P và ông H vẫn có hiệu lực pháp luật đến năm 2015. Cụ P và ông H đều chết năm 2015 không để lại di chúc do vậy các hàng thừa kế đã làm thủ tục thừa kế di sản, theo đó bà C thừa kế toàn bộ thửa đất 33, 34 của ông H (chồng bà C), cụ Nguyễn Thị N (vợ cụ P) thừa kế toàn bộ thửa đất của cụ P. Sau đó bà C ký hợp đồng tặng cho cụ Nguyễn Thị N toàn bộ thửa đất 33, 34 mà bà C được hưởng thừa kế từ ông H. Các tài liệu đo vẽ và làm thủ tục và nộp tiền chuyển đổi hợp pháp hóa đất dôi dư, lấn chiếm thể hiện tổng diện tích đất cụ Nguyễn Thị N (được hưởng thừa kế năm 2019 từ cụ P và đất tặng cho từ bà C)  là thửa số 777 tờ bản đồ số 16, diện tích 773,6m2 (đất ở 471m2, đất trồng cây lâu năm 302,4m2). Năm 2019 cụ  Nguyễn Thị N chết, ông M và anh T có văn bản nhận di sản thừa kế của cụ Nguyễn Thị N và phân chia mỗi người nhận ½ di sản của cụ Nguyễn Thị N, các hàng thừa kế còn lại từ chối nhận di sản thừa kế của cụ Nguyễn Thị N, ngày 14/9/2020 ông  M và anh T được UBND xã N cấp GCNQSDĐ  đối với thửa đất số 777, TBĐ số 16, diện tích 773,6m2. Căn cứ vào đơn đề nghị tách thửa đất số 777 diện tích 773,6m2, ngày 18/1/2021 UBND huyện N đã cấp GCNQSDĐ cho anh T thửa đất số 798, TBĐ số 16, diện tích 403m2 (đất ở 249m2, đất trồng cây lâu năm 153,5m2) và ghi chú nguồn gốc là cấp đổi lại đất được tách ra từ thửa số 777 mang tên ông M và anh T. Ngày 12/3/2021 anh T ký hợp đồng tặng cho bà C và có đơn đề nghị tách thửa, ngày 12/4/2021 UBND huyện N đã cấp GCNQSDĐ đối với anh T thửa đất số 802 diện tích 200,4m2, cấp GCNQSDĐ cho bà C thửa đất số 801 diện tích 202,6m2 và ghi nguồn gốc đất cấp cho bà C là nhận tặng cho đất được tách ra từ thửa 798 mang tên anh T.
Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa trình chiếu tài liệu chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa ngày 14/1/2025
Tại phiên tòa bà C và anh T đều xác nhận đúng chữ ký tại các hợp đồng tặng cho, nhận di sản thừa kế, vị trí hiện tại thửa đất bà và anh T được cấp trong GCNQSDĐ và đang ở hiện nay vẫn là vị trí của các thửa đất 33 và 34 trước đây UBND huyện N cấp cho ông H. Nhận thấy việc ký kết các hợp đồng tặng cho, văn bản từ chối nhận di sản thừa kế, văn bản nhận thừa kế đối với di sản của ông H và cụ P đều trên cơ sở tự nguyện và được chứng thực và niêm yết công khai tại UBND xã N. Mặt khác sau khi nhận di sản thừa kế đất của ông H thì đến ngày 30/10/2019 bà C đã ký hợp đồng tặng cho cụ Nguyễn Thị N (được ghi tại phần thay đổi sau khi cấp GCNQSDĐ mang tên ông H) do vậy toàn bộ quyền lợi ích hợp pháp của bà C đã chấm dứt đối với toàn bộ di sản thừa kế này.
Thông qua các lần thừa kế, tặng cho, hợp nhất, tách các thửa đất trên thì người được cấp GCNQSDĐ, số thửa và diện tích cũng như nguồn gốc các thửa đất, ghi chú tại các GCNQSDĐ sẽ thay đổi và kế thừa theo giấy chứng nhận quyền sử dụng liền kề ngay trước đó theo từng lần chuyển đổi và đảm bảo về trường hợp phân chia thừa kế theo pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015, quy định về xác định những người được hưởng thừa kế theo quy định tại Điều 649, Điều 651, Điều 620 Bộ luật Dân sự 2015, đảm bảo về trình tự hồ sơ hợp nhất, tách thửa đất quy định tại Điều 75 Nghị định 43/2014/NĐ-CP, được sửa đổi bởi khoản 49 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP và quy định tại khoản 11 Điều 9 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT, được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 2 Thông tư 09/2021/TT-BTNMT  và cấp GCNQSDĐ theo quy định tại Điều 99 Luật đất đai năm 2013.
Từ những nhận định và các tài liệu chứng cứ được Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương công bố bằng hình ảnh tại phiên tòa có cơ sở xác định UBND huyện N cấp 02 GCNQSDĐ cùng ngày 12/4/2021 cho bà Nguyễn Thị C và anh Nguyễn Sỹ T về thửa đất, nguồn gốc và diện tích đất là đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo được quyền lợi ích hợp pháp cho bà C. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 193 Luật TTHC 2015 tuyên xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà C.
Trên cơ sở kết quả tranh luận tại phiên tòa và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử đã quyết định bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C.
                                                                          Đinh Thị Thanh Huế- Phòng 10
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây