Vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương đã tham gia phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án “Tranh chấp về chia tài sản chung, nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, tranh chấp về hợp đồng hợp tác” giữa nguyên đơn là anh Phùng Văn T và bị đơn chị Phạm Thị K.
Nội dung vụ án: Chị Phạm Thị K và anh Phùng Văn T được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 26/05/1995 tại Ủy ban nhân dân xã Ngũ Phúc, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Sau một thời gian chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn nên chị K đã làm đơn đề nghị Toà án nhân dân huyện Kim Thành giải quyết ly hôn với anh T và chia tài sản chung là 02 thửa đất gồm: Thửa đất số 285, trên đất có một nhà 3 tầng tại thôn Bằng Lai, xã Ngũ Phúc, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương và Thửa đất vườn số 258 tại thôn Dưỡng Mông, xã Ngũ Phúc, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Hiện cả hai thửa đất đã được UBND huyện Kim Thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên 2 vợ chồng.
Quá trình giải quyết vụ án, anh T có đơn yêu cầu Toà án giải quyết chia tài sản chung vợ chồng, gồm: chia Dự án khu vui chơi, giải trí tập luyện thể thao và nhà hàng ăn uống tại thôn Lễ Độ, xã Kim Anh, huyện Kim Thành đã được UBND huyện Kim Thành; Số tiền 350.000.000đ bán căn hộ vợ chồng mua căn hộ du lịch và giải quyết nợ chung là số tiền 200.000.000đ.
Anh Trần Văn H có đơn yêu cầu độc lập đề nghị Tòa án công nhận anh là thành viên góp 50% vốn đầu tư thực hiện dự án “Nhà hàng ăn uống, vui chơi giải trí và luyện tập thể thao” tại thôn Lễ Độ, xã Kim Anh, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương và đề nghị Tòa án phân chia tài sản chung giữa anh H và vợ chồng anh T chị K.
Ngày 27/6/2024 chị K rút yêu cầu khởi kiện về ly hôn và chia tài sản chung. Tuy nhiên, anh T vẫn giữ nguyên yêu cầu chia tài sản, nợ chung, anh H vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập. Tòa án đã ra thông báo thay đổi quan hệ pháp luật tranh chấp và thay đổi tư cách tham gia tố tụng: anh T trở thành nguyên đơn, chị K trở thành bị đơn và những người còn lại là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tại Bản án số dân sự sơ thẩm số 49/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Kim Thành quyết định: “…4. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn Tùng.
Công nhận văn bản thỏa thuận góp vốn ngày 31/10/2017 giữa anh Trần Văn Tùng và vợ chồng chị Phạm Thị Tố Khuyên, anh Phùng Văn Tài là hợp pháp.
Xác định anh Trần Văn Tùng có 50% vốn góp cùng với 50% vốn góp của vợ chồng chị Phạm Thị Tố Khuyên, anh Phùng Văn Tài trong việc đầu tư Dự án xây dựng nhà hàng ăn uống, vui chơi giải trí và tập luyện thể thao tại xã Kim Anh, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
Các thành viên hợp tác trong Dự án xây dựng nhà hàng ăn uống, vui chơi giải trí và tập luyện thể thao tại xã Kim Anh, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương gồm: anh Trần Văn Tùng, vợ chồng chị Phạm Thị Tố Khuyên và anh Phùng Văn Tài có quyền ngang nhau trong việc định đoạt đối với tài sản là diện tích đất 4629,2 m2 tại thửa đất số 464, tờ bản đồ số 7, tại thôn Lễ Độ, xã Kim Anh, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CQ 242951 do UBND huyện Kim Thành cấp ngày 29/7/2019 mang tên Phùng Văn Tài (diện tích này đã bị thu hồi 271 m2 theo Quyết định số 440/QĐ-UBND ngày 13/4/2023 của UBND huyện Kim Thành) cùng các tài sản trên đất theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 27/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện Kim Thành.
Anh Trần Văn Tùng và vợ chồng chị Phạm Thị Tố Khuyên, anh Phùng Văn Tài có quyền và nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh, bổ sung thông tin về chủ đầu tư thực hiện Dự án, chủ sử dụng đất và các nội dung khác liên quan khác đến Dự án theo đúng quy định của Luật Đầu tư năm 2020 và Luật đất đai năm 2014…”
Toà án cấp sơ thẩm nhận được đơn kháng cáo của Phùng Văn T không nhất trí với bản án sơ thẩm đề nghị xem xét lại vụ án theo hướng chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh, chia tài sản chung là dự án xây dựng nhà hàng ăn uống, khu vui chơi giải trí và thể thao, không chấp nhận yêu cầu độc lập của anh Trần Văn H và đơn kháng cáo của anh Trần Văn H với nội dung đề nghị cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh H.
Xét thấy đơn khởi kiện và tại phiên toà sơ thẩm nguyên đơn là anh Phùng Văn T đều yêu cầu chia tài sản chung là Dự án khu vui chơi, giải trí tập luyện thể thao và nhà hàng ăn uống tại thôn Lễ Độ, xã Kim Anh, huyện Kim Thành nhưng bản án dân sự sơ thẩm Toà án nhân dân huyện Kim Thành không có nội dung giải quyết yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng đối với dự án này.
Ngoài ra người đại diện của anh H rút một phần yêu cầu độc lập, chỉ yêu cầu anh Tùng là thành viên góp vốn của dự án nêu trên, không yêu cầu chia dự án nhưng bản án không đình chỉ nội dung này.
Hồ sơ thể hiện văn bản thoả thuận góp vốn chỉ có chữ ký của anh H và chị Nguyễn Thị K và người làm chứng Trần Trang Thuỳ, không có chữ ký của anh T (chồng chị K), anh T không thừa nhận việc góp vốn, anh H, chị K không có chứng cứ chứng minh anh T biết, đồng ý hoặc uỷ quyền cho cho chị K nhận góp vốn vào dự án mà đã được UBND huyện Kim Thành phê duyệt và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản trên đất đứng tên anh Phùng Văn T. Như vậy toà án đã có sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ, từ đó công nhận văn bản thoả thuận trên là hợp pháp, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh T. Bản án nhận định anh H và hộ gia đình chị K ký văn bản thoả thuận góp vốn là không chính xác, từ đó công nhận văn bản thoả thuận trên là hợp pháp là không phù hợp.
Do toà án cấp sơ thẩm chưa giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của anh T, có sai lầm nghiêm trọng trong việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật quy định tại Điều 5, Điều 108 BLTTDS, Viện KSND huyện Kim Thành đã ban hành kháng nghị đề nghị theo hướng huỷ một phần Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Kim Thành.
Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm xác định kháng nghị của VKSND huyện Kim Thành là có căn cứ nên chấp nhận kháng nghị của VKSND huyện Kim Thành, kháng cáo của ông Phùng Văn T huỷ một phần bản án sơ thẩm số 49/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự./.
|
Phạm Thị Quyên, Nguyễn Thị Thương
Phòng 9, Viện KSND tỉnh Hải Dương |