Vì sao cấp sơ thẩm tuyên hơn 08 tỷ đồng, cấp phúc thẩm chỉ tuyên 03 tỷ đồng

Thứ năm - 21/08/2014 22:27
          Ngày 07/5/2013 anh Phạm Trí Dũng trú tại thôn Lai Khê, xã Cộng Hòa, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương có đơn khởi kiện yêu cầu TAND huyện Kim Thành giải quyết buộc anh Đào Quang Sơn và chị Trần Thị Thanh ở cùng thôn phải trả số tiền gốc là 7.300.640.000đ và tiền lãi là 2.931.450.000đ (tổng số tiền là 10.232.090.000đ), kèm theo đơn khởi kiện có:
          -01 Giấy mượn tiền (lãi suất thỏa thuận) ngày 16/5/2011 của anh Đào Quang Sơn, chị Trần Thị Thanh với anh Phạm Trí Dũng thể hiện anh Sơn, chị Thanh vay của anh Dũng số tiền 1,5 tỷ đồng, tài sản thể chấp là toàn bộ bất động sản tại Lai Khê, Cộng hòa, Kim Thành, Hải Dương có GCNQSD đất số U175528, vào sổ cấp giấy CNQSD đất số 144 QSDĐCH/KT do UBND huyện Kim Thành cấp ngày 11/9/2002;
          - 01 Giấy vay tiền ngày 20/5/2011 của anh Đào Quang Sơn, chị Trần Thị Thanh với anh Phạm Trí Dũng thể hiện anh Sơn, chị Thanh vay của anh Dũng số tiền 1,5 tỷ đồng để mua căn nhà của anh Hồng, chị Thúy ở ngã ba Lai Khê xã Cộng Hòa; thời hạn vay 05 tháng; tài sản thể chấp chính là căn nhà của anh Hồng, chị Thúy. Sau khi mua bán xong sẽ ra phòng công chứng làm hợp đồng ủy quyền và làm hợp đồng thế chấp vay tài sản cá nhân;
          -  01 Giấy vay tiền ngày 10/02/2012 của anh Đào Quang Sơn, chị Trần Thị Thanh với anh Phạm Trí Dũng thể hiện anh Sơn, chị Thanh vay của anh Dũng số tiền ngoại tệ là 51.900EURO, khi nào cần lấy lại báo trước 01 tháng;
          - 01 Giấy vay tiền ngày 16/3/2012 của anh Đào Quang Sơn, chị Trần Thị Thanh với anh Phạm Trí Dũng thể hiện anh Sơn, chị Thanh vay của anh Dũng số tiền là 20.000EURO, hẹn đến ngày 16/6/2012 sẽ trả hết;
          - 01 Giấy vay tiền ngày 16/3/2012 của anh Đào Quang Sơn, chị Trần Thị Thanh với anh Phạm Trí Dũng thể hiện anh Sơn, chị Thanh vay của anh Dũng số vàng là 16 cây vàng SJC, khi nào cần lấy lại báo trước 01 tháng;
          - 01 Giấy vay tiền ngày 16/6/2012 của anh Đào Quang Sơn, chị Trần Thị Thanh với anh Phạm Trí Dũng thể hiện anh Sơn, chị Thanh vay của anh Dũng số tiền là 31.534USD, khi nào cần lấy lại báo trước 01 tháng;
          - 01 Giấy vay tiền ngày 16/8/2012 của anh Đào Quang Sơn, chị Trần Thị Thanh với anh Phạm Trí Dũng thể hiện anh Sơn, chị Thanh vay của anh Dũng số tiền là 1.040.893.000đ, khi nào cần lấy lại báo trước 01 tháng.
          Cùng ngày 07/5/2013 TAND huyện Kim Thành thụ lý giải quyết vụ án theo Thông báo thụ lý số 03/2013/TB-TLVA trên cơ sở đơn khởi kiện và các tài liệu nêu trên của anh Phạm Trí Dũng. Quá trình TAND huyện Kim Thành giải quyết vụ án trong các lời khai của mình, anh Đào Quang Sơn và chị Trần Thị Thanh một mực khẳng định vợ chồng anh chị chỉ vay anh Phạm Trí Dũng số tiền 1,5 tỷ đồng của giấy vay nợ đầu tiên ngày 16/5/2011 còn các giấy vay tiền còn lại do anh Dũng lợi dụng việc anh chị không có tiền trả lên đã yêu cầu anh chị ký vào các giấy vay nợ tiếp theo. Cũng trong quá trình thụ lý giải quyết của TAND huyện Kim Thành anh Dũng và anh Sơn đều có lời khai thừa nhận từ khi vay tiền anh Sơn chưa trả anh Dũng bất cứ số tiền nào và anh Sơn có nộp cho TAND huyện Kim Thành một số giấy tờ thể hiện việc trả tiền, tính lãi của anh Dũng bằng tiền VNĐ, bằng USD, bằng EURO và bằng vàng SJC. Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2014/DSST ngày 08/01/2014 của Tòa án nhân dân huyện Kim Thành tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Trí Dũng, buộc anh Đào Quang Sơn và vợ là chị Trần Thị Thanh phải thanh toán trả anh Phạm Trí Dũng số tiền gốc là 7.303.710.000đồng và tiền lãi vay là 842.122.000đồng. Tổng cộng vợ chồng anh Sơn, chị Thanh phải trả cho anh Dũng là 8.145.832.000đồng (tám tỷ một trăm bốn mươi lăm triệu trám trăm ba mưới hai ngàn đồng).
          Sau khi TAND huyện Kim Thành tuyên bản án nêu trên, VKSND huyện Kim Thành cũng đồng tình với phán quyết của TAND huyện Kim Thành và cho rằng TAND huyện Kim Thành đã căn cứ vào 07 giấy vay tiền của anh Dũng và anh Sơn nêu trên ra một bản án phù hợp với quy định của pháp luật, nên không tiến hành kháng nghị phúc thẩm hoặc báo cáo để VKSND tỉnh Hải Dương kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.
          Ngày 20/01/2014 anh Đào Quang Sơn có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm và xác định anh chỉ vay nợ anh Phạm Trí Dũng số tiền là 1.500.000.000đ (một tỷ năm trăm triệu đồng chẵn), ngoài ra không nợ khoản tiền nào khác. Ngày 11/3/2014 TAND tỉnh Hải Dương tiến hành thụ lý giải quyết vụ án nêu trên theo trình tự phúc thẩm. Quá trình thụ lý giải quyết cấp phúc thẩm (TAND tỉnh và VKSND tỉnh) đánh giá cấp sơ thẩm đã không xem xét đến lời khai của cả nguyên đơn và bị đơn về việc từ ngày vay tiền bị đơn chưa trả nguyên đơn đồng nào; Không xem xét các tài liệu là các tờ giấy tính tiền lãi, quy đổi tiền vay ra vàng SJC, ra USD, ra EURO của nguyên đơn viết đưa cho bị đơn do bị đơn xuất trình trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; Mặt khác cấp sơ thẩm cũng không xem xét đến lời khai của bị đơn xác định các giấy vay tiền, vay vàng, vay USD, vay EURO đều là các bản được viết sẵn số tiền, vàng, USD, EURO đưa cho bị đơn ký và điền thêm dòng chữ đã nhận đủ tiền để từ đó đối chiếu lại với các giấy vay tiền (bản gốc) có trong hồ sơ vụ án để từ đó đánh giá sự thật khách quan của vụ án, sự tin cậy chính xác trong lời khai của bị đơn từ đó đối chiếu với các chứng cứ vật chất khác để ra một bản án chính xác phù hợp với quy định của pháp luật.
          Với cách tiếp cận hồ sơ và đánh giá nêu trên cấp phúc thẩm đã đi sâu nghiên cứu, khai thác các tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án do cấp sơ thẩm thu thập và phát hiện trong các tờ giấy do nguyên đơn lập (bị đơn xuất trình) thể hiện việc tính lãi ra tiền VNĐ sau đó quy đổi ra USD, ra EURO, ra vàng SJC sau đó bán đi để trả vào tiền gốc nhưng vẫn giữ lại các giấy vay tiền cũ (trước khi quy đổi) và lại yêu cầu bị đơn viết tiếp giấy vay tiền mới bằng vàng SJC, bằng USD, bằng EURO vì vậy mới có nhiều giấy vay tiền đến vậy. Một chú ý khác của cấp phúc thẩm là vào ngày 30/10/2012 nguyên đơn (anh Dũng) có đơn đề nghị UBND xã Cộng Hòa, huyện Kim Thành giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa anh Dũng và anh Sơn nhưng chỉ đòi số tiền là 1,5 tỷ đồng và chỉ xuất trình 01 giấy vay tiền ngày 20/5/2011, mặc dù trong tay anh Dũng đã có đủ 07 giấy vay tiền như đã nêu ở trên. Từ cách phân tích đánh giá các tài liệu chứng cứ nêu trên cấp phúc thẩm đã tiến hành lấy lời khai của nguyên đơn (anh Dũng) yêu cầu giải trình các vấn đề trên và trong lời khai của mình anh Dũng xác định ngày 16/3/2012 mới cho vay 16 cây vàng SJC; một lần nữa nguyên đơn đã thừa nhận từ khi vay tiền anh Sơn chưa trả anh đồng nào; các giấy tờ quy đổi ra vàng SJC, ra USD, ra EURO, tính lãi ra VNĐ sau đó bán đi để trả vào tiền gốc là do nguyên đơn viết. Xem xét các chứng cứ vật chất do bị đơn xuất trình thì thấy việc tính ra 16 cây vàng SJC đã xuất hiện từ ngày 16/11/2011 và các giấy vay tiền sau ngày 20/5/2011 đều không có thế chấp tài sản (ngược lại hoàn toàn với 02 giấy vay tiền trước đó có thế chấp tài sản đảm bảo cho khoản vay) và thư của anh Dũng gửi anh Sơn ngày 16/9/2012 chỉ xác định số nợ tiền mặt là 3,93tỷ đồng, 11.608EURO, 16 cây vàng SJC. Như vậy với các chứng cứ vật chất đầy mâu thuẫn có đủ căn cứ đánh giá toàn bộ các giấy vay tiền là vàng SJC, là USD, là EURO và 01 giấy vay số tiền là 1.040.893.000đ đều là ký khống mà không có việc cho vay tiền và bị loại bỏ vì nguyên đơn không chứng minh được đã cho bị đơn vay số tiền vày ghi trong giấy vay này.
          Quay lại nội dung khởi kiện của nguyên đơn thì chỉ còn 02 giấy vay tiền với tổng số tiền là 03 tỷ đồng thể hiện ở 02 giấy vay tiền ngày 16/5/2011 và ngày 20/5/2011 (mỗi giấy 1,5 tỷ đồng), hai giấy vay tiền này đều thể hiện bị đơn nhận tiền và thế chấp tài sản là bất động sản cho nguyên đơn. Xem xét kỹ thì thấy có căn cứ xác định nguyên đơn đã cho bị đơn vay số tiền 03 tỷ đồng này vì gắn với nó đều là các hợp đồng thế chấp tài sản có công chứng. Nhưng đánh giá lại các tài liệu chứng cứ thì xuất hiện các câu hỏi là: Tại sao khi đã phát sinh mâu thuẫn mà từ ngày 30/10/2012 đến 15/11/2012 nguyên đơn chỉ đòi bị đơn 1,5 tỷ đồng tại UBND xã Cộng Hòa? Tại sao trong biên bản hòa giải ngày 15/7/2013 nguyên đơn chỉ đòi bị đơn số tiền 03 tỷ đồng? Phải chăng thực chất nguyên đơn chỉ cho bị đơn vay số tiền 1,5 tỷ đồng vào ngày 16/5/2011 nên chỉ đòi bị đơn 03 tỷ đồng vào tháng 7/2013? Từ những câu hỏi như vậy cấp phúc thẩm đã tạo điều kiện về mặt thời gian và triệu tập để các đương sự gặp nhau hòa giải, kết quả tại phiên tòa phúc thẩm ngày 09/7/2014 các đương sự đã thống nhất hòa giải bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền 03 tỷ đồng và cấp phúc thẩm đã xét xử ra bản án công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
          Vấn đề rút ra từ vụ án dân sự này là các Kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ một cách toàn diện, đánh giá thật đầy đủ chi tiết các tài liệu chứng cứ do tất cả các đương sự xuất trình từ đó xem xét lại các mâu thuẫn trong chính các tài liệu chứng cứ đó và đào sâu khai thác các mâu thuẫn đó để lấy lời khai yêu cầu các đương sự giải trình, từ đó rút ra sự thật khách quan của vụ án và có đề xuất kháng nghị kịp thời theo quy chế nghiệp vụ của ngành góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao uy tín và vị thế của ngành kiểm sát nhân dân./.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây