71 Năm thành lập, xây dựng và trưởng thành Quân đội nhân dân Việt nam
Thứ hai - 21/12/2015 23:26
Trải qua hơn bốn nghìn năm dựng nước, giữ nước, nhân dân Việt Nam đã làm lên những chiến thắng hào hùng và oanh liệt như Chiến thắng Chi Lăng, Bạch Đằng, chiến thắng Ngọc hồi, Đống Đa và gần đây cuộc chiến thắng vẻ vang của dân tộc trước hai đế quốc thực dân hùng mạnh vào bậc nhất thế giới là thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Nhân dân ta đã làm lên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa xuân năm 1975. Những chiến thắng đã đi vào lịch sử dân tộc không chỉ của dân tộc Việt Nam mà của cả nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới vì mục tiêu hòa bình và tôn trọng lãnh thổ, tôn trọng quyền tự do, tự quyết của nhân dân, dân tộc Việt Nam nó như một dấu son chói lọi trên bầu trời thế giới, đã đưa Việt Nam sánh ngang với các cường quốc trên thế giới và cũng từ đây nhân dân tiến bộ thế giới biết đến Việt Nam với tinh thần anh dũng, lòng quả cảm, kiên cường bất khuất, yêu hòa bình. Chiến thắng của nhân dân Việt Nam cũng là nguồn động viên, cổ vũ cho các dân tộc trên toàn thế giới đứng lên tự giải phóng cho mình khỏi sự xâm chiếm của thực dân, đế quốc như: Cu Ba, Ni giê ni a, An giê ri, Lào, Cam Phu Chia... Mỗi một cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân ta, dân tộc ta cũng là những lần nhân dân ta, dân tộc ta khẳng định lại lần nữa “nước ta là một nước dân chủ, độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”.
Sức mạnh của các tầng lớp nhân dân đều được phát huy bởi tinh thần của khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn bó, keo sơn để tạo ra sức mạnh chính trị trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Trong bão táp cách mạng những năm 1930-1931, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Xô viết Nghệ - Tĩnh của công nông, tự vệ Đỏ đã ra đời. Đó là mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng, của quân đội cách mạng ở Việt Nam. Từ cuối năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bắt đầu, cách mạng Việt Nam chuyển hướng chiến lược, đặt nhiệm vụ trọng tâm vào giải phóng dân tộc, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Trong phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, các cuộc khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ đã diễn ra trên nhiều địa phương. Những tổ chức vũ trang không tập trung và tập trung sinh ra từ lực lượng cách mạng đông đảo của quần chúng đã xuất hiện trong khắp cả nước. Sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp của phong trào đấu tranh của quần chúng, sự trưởng thành nhanh chóng của các tổ chức vũ trang quần chúng đòi hỏi cách mạng Việt Nam lúc này phải có một đội quân chủ lực thống nhất về mặt tổ chức. Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị, ngày 22-12-1944 ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN được thành lập, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Chỉ thị Người ghi rõ:"Tên: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền"; "Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác". "Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ (34 đồng chí), nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta".
Những đội vũ trang tập trung và không tập trung trong cả nước sinh ra từ lực lượng cách mạng đông đảo của quần chúng, là những tổ chức tiền thân của các lực lượng vũ trang nhân dân, của quân đội nhân dân. Tháng 4-1945, Hội nghị quân sự Bắc Kỳ của Đảng quyết định hợp nhất các tổ chức vũ trang trên cả nước thành lập Việt Nam giải phóng quân. Đó là lực lượng vũ trang đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Ngay say khi ra đời lực lượng vũ trang nhỏ bé đó đã đánh thắng giặc ở Phay khắt và Nà ngần điều đó chứng tỏ lực lượng vũ trang của chúng đã ra quân là đánh thắng và đánh thắng ngay ở trận đầu. Trong cuộc cách mạng tháng 8/1945 lực lượng vũ trang của chúng ta không ngừng lớn mạnh cả về số lượng cũng như chất lượng. Với hai cánh quân do đồng chí Võ nguyên Giáp và đồng chí Song Hào chỉ hủy đã tiến về giải phóng trung du, đồng bằng, giải phóng thủ đô làm lên cách mạng tháng 8/1945 lập lên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và cho ra đời bản Hiến pháp năm 1946 đầu tiên của nước ta. Cách mạng Tháng Tám thành công. Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ quốc quân, rồi thành Quân đội quốc gia Việt Nam và về sau, đến năm 1950 được đổi tên là Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngày 22-12-1944, ngày thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được lấy làm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.
Theo nguyện vọng của nhân dân trong cả nước, ngày 17-10-1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định kỷ niệm Ngày thành lập QĐND Việt Nam (22-12-1944) cũng là Ngày hội Quốc phòng toàn dân. Từ đó tới nay, hàng năm nhân dân ta đều khẳng định sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu vị cha già của dân tộc; khơi dậy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và những đóng góp to lớn của quân và dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN. Đồng thời khơi dậy niềm tự hào dân tộc, nâng lòng yêu nước, tinh thần độc lập, tự chủ, ý chí quyết chiến, quyết thắng, mối tình đoàn kết gắn bó máu thịt của Quân và dân ta để phấn đấu hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Trải qua 71 năm thành lập, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành Quân đội nhân dân Việt Nam lực lượng vũ trang tiên phong trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc và 26 năm ngày hội Quốc phòng toàn dân. Đội quân từ nhân dân mà ra, chiến đấu và bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam luôn xứng đáng “Quân đội ta trung với Đảng, Hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ Quốc, vì chủ nghĩa xã hội”. Bên cạnh sức mạnh của lực lượng vũ trang – Quân đội nhân dân Việt nam thì luôn có sự sát cánh của cả dân tộc, nhân dân trong phong trào Quốc phòng toàn dân. Như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“ ... Nước Việt Nam là một, Dân tộc Việt Nam là một, Sông có thể cạn, núi có thể mòn, xong Chân lý đó không bao giờ thay đổi ...”
Ngày nay, để xứng đáng với lá cờ bách chiến bách thắng của các thế hệ cha anh đã chiến đấu dũng cảm để bảo vệ từng tấc đất, non sông của tổ quốc, bình yên cho nhân dân. Chúng tôi – Người cán bộ kiểm sát, mặc dù không được trải qua những năm tháng gian khổ, tàn khốc của cuộc chiến tranh nhưng càng thấu hiểu, thấm thía và khâm phục những gì mà cha, anh các thế hệ đi trước đã để lại. Thế hệ trẻ chúng tôi sinh ra trong hoà bình, tự do được học tập và vinh dự được đứng trong hàng ngũ cán bộ Kiểm sát – những con người luôn tự hào và mang bên mình một nhiệm vụ cao cả đó là: “bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Năm tháng đã qua đi, chiến tranh đã lùi xa, trách nhiệm của chúng ta là xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng hùng mạnh và giàu đẹp để xứng đáng với lá cờ bách chiến, bách thắng của cách mạng Việt Nam.