Bình Giang: kháng nghị bản án sơ thẩm do có vi phạm trong thu thập và đánh giá chứng cứ

Thứ sáu - 19/05/2023 05:51
Bình Giang: kháng nghị bản án sơ thẩm do có vi phạm trong thu thập và đánh giá chứng cứ

Qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án hôn nhân gia đình về "Ly hôn, tranh chấp chia tài sản chung khi ly hôn", giữa nguyên đơn ông Nguyễn Thừa K; Bị đơn bà Nguyễn Thị L1; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Cụ Nguyễn Thừa L2, ông Nguyễn Thừa C, bà Vũ Thị N…Viện kiểm sát đã kịp thời phát hiện Toà án vi phạm trong thu thập và đánh giá chứng cứ để thực hiện thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm.

 

bg 1
 Ảnh phiên toà

Theo hồ sơ vụ án, ông K và bà L1 được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang. Vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Từ năm 2009 đến nay, ông K chuyển về sống cùng bố mẹ đẻ, bà L1 ở nhà đất của vợ chồng tại thửa đất số 398, tờ bản đồ 05, diện tích 173m2 tại thôn Bùi Xá, xã Nhân Quyền (gọi tắt là thửa đất 398). Đến nay, ông K thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Về con chung: không đề nghị giải quyết do đã trưởng thành.

Tài sản chung vợ chồng gồm: Thửa đất 398 trị giá 259.500.000 đ; Tài sản trên đất gồm nhà 2 tầng, sân trạt…có trị giá 247.608.000 đ. Tiêu chuẩn đất 03 của ông K, bà L1 mỗi người là 382,2 mnằm trong tổng diện tích 1.911 m2 đất 03 của gia đình gồm 5 khẩu: ông K, bà L1, ông C, bà N và mẹ ông K là cụ S; Tài sản trên đất 03 do ông K, bà L1, ông C, bà N cùng tạo lập.

Bà L1 hiện đang ở thửa đất 398, còn ông K đang ở nhờ nhà của cụ L2 nên ông K, bà L1 đều yêu cầu được chia bằng hiện vật. Đối với đất 03, ông K và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhất trí chia trả phần đất tiêu chuẩn của bà L1 và chỉ cần tách phần của bà L1; phần còn lại ông K và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thống nhất để ông C, bà N tiếp tục quản lý, sử dụng; ông C, bà N yêu cầu bà L1 phải thanh toán trả tiền công sức cho.

Bản án sơ thẩm đã quyết định về phần tài sản: Chia cho bà L1 nhà đất tại thửa đất 398 và 382,2 mđất 03. Chia cho ông K 382,2 mđất 03. Giao cho ông C, bà N, ông K cùng sở hữu tài sản trên đất 03 được giao có tổng trị giá 268.366.265 đ. Bà L1 thanh toán cho ông K 202.843.200 đ; thanh toán cho ông C, bà N, ông K tiền chênh lệch tài sản trên đất 03 là 8.503.735 đ. Ông K chịu án phí chia tài sản 20.391.728 đ; bà L1 chịu án phí chia tài sản 24.448.592 đ; ông C, bà N cùng chịu án phí chia tài sản 9.229.000 đ.

Qua kiểm sát đã phát hiện bản án sơ thẩm có vi phạm như sau:

Về tỷ lệ chia tài sản chưa bảo đảm tương xứng với công sức đóng góp của vợ, chồng: Theo lời khai của ông K, bà L1 thì: nguồn gốc thửa đất 398 là do vợ chồng tích luỹ mua được sau khi kết hôn. Năm 2006, ông K đi lao động ở nước ngoài. Năm 2010, vợ chồng xây nhà bằng nguồn tiền do ông K đi lao động gửi về và tiền vay của người thân trong gia đình. Từ khi về nước đến nay, ông K vẫn có trách nhiệm trả nợ và đã trả gần hết. Vợ chồng đã sống ly thân 14 năm nay. Trong thời gian này, bà L1 không kiến tạo gì thêm trên thửa đất, bà L1 được sử dụng toàn bộ nhà đất của vợ chồng, còn ông K phải ở nhờ nhà bố mẹ đẻ. Do vậy, Bản án sơ thẩm nhận định bà L1 trông coi tài sản nhà đất trong nhiều năm nên cần tính công sức duy trì tài sản cho bà L1 và chia cho bà L1 hưởng 60% trị giá tài sản là không có căn cứ, không bảo đảm quyền lợi của ông K.

Về cách chia hiện vật: Bản án sơ thẩm chia cho bà L1 nhà đất tại thửa  398 là không có căn cứ, bởi lẽ: Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ thì thửa đất 398 có cạnh giáp mặt đường bê tông là 6,97m, nhà xây 2 tầng trên đất có chiều rộng 4,44m; phía sau nhà xây 2 tầng còn diện tích đất kích thước (8,97 x 6,93) m. Xét về mặt thực tế thì hoàn toàn có thể chia thửa 398 thành hai thửa: 01 thửa trên có nhà 2 tầng, 01 thửa phía sau và có đường đi vào; diện tích, kích thước của hai thửa và đường đi vào thửa đất phía sau hoàn toàn phù hợp với quy định tại điểm a khoản 4 Điều 10, điểm b khoản 1 Điều 12 Quy định hạn mức giao đất ở…theo Quyết định số 12 ngày 04/10/2022 của UBND tỉnh. Quá trình giải quyết vụ án, ông K, bà L1 đều yêu cầu được chia đất ở. Ngoài thửa đất 398, ông K, bà L1 không còn quyền sử dụng đất nào khác, hiện ông K đang phải đi ở nhờ. Do vậy, Toà án giao toàn bộ nhà đất tại thửa 398 cho bà L1 là không bảo đảm quyền lợi của ông K. Cách chia hiện vật như trên đã vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình: tài sản chung vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị.

Về kết quả định giá tài sản: Theo Quyết định số 55 ngày 20/12/2019 của UBND tỉnh thì thửa đất 398 có giá là 1.350.000 đ/m2. Ngày 26/5/2020, Hội đồng định giá đã khảo sát giá và định giá là 1.500.000 đ/m2. Theo Quyết định số 05 ngày 20/4/2022 của UBND tỉnh quy định hệ số điều chỉnh giá đất trên địa bàn tỉnh năm 2022 thì thửa đất 398 có giá là 2.700.000 đ/m2. Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã giải thích cho đương sự về quyền được yêu cầu định giá lại, tuy nhiên chưa giải thích rõ cho đương sự hiểu là: Nếu Toà án chia toàn bộ thửa đất 398 cho ai thì người đó phải thanh toán tiền cho người còn lại, do vậy nếu giá đất thấp thì người nhận tiền sẽ bị thiệt. Ông K trình bày ông không đề nghị định giá lại vì ông nghĩ rằng sẽ được chia đất, hiện giá đất khoảng hơn 5 triệu đ/m2 và ông đề nghị cấp phúc thẩm định giá lại. Tuy nhiên, Toà án vẫn áp dụng kết quả định giá năm 2020 để giải quyết vụ án và tuyên giao toàn bộ thửa đất 398 cho bà L1, buộc bà L1 trả tiền cho ông K là không bảo đảm quyền lợi của ông.

Về án phí: Toà án áp dụng kết quả định giá năm 2020 để giải quyết vụ án sẽ làm cho trị giá thửa đất giảm đi, dẫn đến tiền án phí cũng bị giảm đi, gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước. Quá trình giải quyết vụ án, vợ chồng ông C, bà N nhất trí chia trả tiêu chuẩn đất ruộng cho bà L1 và yêu cầu bà L1 phải trả tiền công sức. Ông C, bà N không yêu cầu chia tài sản, tuy nhiên Toà án lại buộc ông C, bà N cùng chịu án phí dân sự chia tài sản 9.229.000 đ là không có căn cứ, gây thiệt hại cho ông C, bà N. 

Bản án sơ thẩm tuyên bà L1 phải thanh toán cho ông C, bà N, ông K tiền chênh lệch tài sản trên đất nông nghiệp là 8.503.735 đ nhưng không tuyên cụ thể số tiền phải trả ông C, bà N cũng như số tiền phải trả ông K nên sẽ gây khó khăn cho công tác thi hành án.

Viện KSND huyện Bình Giang đã ban hành kháng nghị, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng đã phân tích nêu trên./.

                                                                       Nguyễn Thị Hoa

VKSND huyện Bình Giang

 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây