- Trang nhất
- Viện KSND tỉnh
- Viện KSND cấp huyện
- Tin Tức
- Nghiệp vụ
- Tin hoạt động
- Văn bản
- Lịch làm việc
- Họp không giấy
Kể từ ngày 02/12/2019, Thông tư số 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 của Bộ trưởng Bộ Công an có hiệu lực thi hành. Thông tư quy định trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Theo đó Lời khai, lời trình bày của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố được coi là chứng cứ quy định tại Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự, khi đảm bảo hình thức quy định tại BLTTHS (Biên bản được lập theo Mẫu thống nhất, bởi Điều tra viên, Cán bộ điều tra được phân công xác minh nguồn tin về tội phạm, cán bộ tiếp nhận thông tin) đồng thời đảm bảo nội dung:
Thứ nhất: Đối với Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can
Biên bản giao nhận phải ghi rõ ý kiến của Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, có nhờ người bào chữa hay không và đề nghị thông báo cho người đại diện, người thân thích;
Biên bản ghi lời khai, hỏi cung đầu tiên phải hỏi rõ và ghi ý kiến của người bị bắt có nhờ người bào chữa hay không (trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam chưa yêu cầu nhờ người bào chữa. Điều tra viên hoặc Cán bộ điều tra phải thông báo cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can biết quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát về việc người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra, thuộc trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Biên bản gặp người thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định tại Điều 76 BLTTHS, người đại diện hoặc người thân thích họ, trong trường hợp họ không có đơn yêu cầu người bào chữa, phải ghi rõ ý kiến của bị can, người đại diện hoặc người thân thích về việc có đồng ý hoặc thay đổi hoặc từ chối người bào chữa do cơ quan đang thụ lý vụ án chỉ định hay không?. Trường hợp họ đồng ý chỉ định người bào chữa thì cơ quan đang thụ lý vụ án tiến hành thủ tục đăng ký bào chữa.
Biên bản ghi lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ; Biên bản hỏi cung bị can phải ghi câu hỏi của người bào chữa, câu trả lời của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can (khi Điều tra viên đồng ý cho người bào chữa được hỏi)
Biên bản giao nhận giữa Người bào chữa và Điều tra viên phải lưu trong hồ sơ vụ án (phản ánh nguồn): chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chuyển giao cho Cơ quan Điều tra.
Biên bản ghi nhận yêu cầu của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, trong trường hợp người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố đưa ra yêu cầu, nếu thấy yêu cầu có liên quan đến việc bào chữa hoặc liên quan đến việc giải quyết vụ án, vụ việc;
Thứ hai: Đối với bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố
Biên bản ghi lời khai đầu tiên đối với bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải giải thích quyền, nghĩa vụ của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và hỏi họ xem có nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hay không và phải ghi ý kiến của họ vào biên bản.
Trường hợp họ nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra hướng dẫn họ viết đơn nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Trường hợp họ không nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra giải thích quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được thực hiện trong suốt quá trình tiến hành tố tụng.
Biên bản ghi lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, phải ghi câu hỏi của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, câu trả lời của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố vào biên bản ( nếu Điều tra viên, Cán bộ điều tra đồng ý cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, kiến nghị khởi tố được hỏi)
Thứ ba: Sự có mặt của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi tiến hành các hoạt động tố tụng
Người bào chữa, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 73, 83 BLTTHS; họ phải có mặt khi lấy lời khai, hỏi cung, đúng thời gian, địa điểm đã được Thông báo. Trường hợp người bào chữa đã được cơ quan đang thụ lý vụ án báo trước (Gửi trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính. Thông báo qua phương tiện thông tin đại chúng. Có thể thông báo bằng hình thức liên lạc qua dịch vụ bưu chính (điện thoại, fax...) hoặc qua các ứng dụng mạng xã hội phổ biến do Điều tra viên, Cán bộ điều tra thống nhất với người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố), mà không có mặt thì hoạt động tố tụng vẫn được tiến hành, trừ trường hợp quy định tại Điều 291 BLTTHS (sự có mặt của người bào chữa tại phiên tòa). Trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố đã được báo trước mà không có mặt thì hoạt động tố tụng vẫn được tiến hành.
Từ nội dung trên, thấy rằng việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, đã được Cơ quan có thẩm quyền quy định, theo hướng cụ thể, khả thi, rõ trách nhiệm của Người tiến hành tố tụng cũng như người tham gia tố tụng vụ án hình sự./.
Nguyễn Quang Trung Phòng 7 VKSND tỉnh |
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
© 2017 Bản quyền của VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG.