Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp 2013

Thứ tư - 03/09/2014 23:28
          Hiến pháp năm 2013  đã công nhận quyền con người là một quyền độc lập tách khỏi quyền công dân. Những quy định của Chương V Hiến pháp năm 2001 đã được sửa đổi bổ sung cho phù hợp và được quy định tại Chương II Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2013 với tên gọi của chương là: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013 như sau: 
          “1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
          2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai.
          3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
          4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
          5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”.
          So với quy định của Điều 72 Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2001 thì Điều 31 Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2013 đã quy định thêm các nội dung mới tại các Khoản 2, 3, 4. Tại Khoản 5 cũng bổ sung thêm việc người bị khởi tố điều tra, thi hành án trái pháp luật cũng có quyền được bồi thường; nội dung bồi thường được mở rộng thêm yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần. Trên cơ sở những quy định mới tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013 như trên, nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội đã được thừa nhận rõ ràng và cụ thể hơn trong Hiến pháp năm 2013:
 Nếu như khoản 1 Điều 72 Hiến pháp cũ quy định “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, chỉ cần một điều kiện là có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì một người bị coi là có tội và chịu hình phạt. Nhưng Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã nhấn mạnh và chỉ rõ, một người bị coi là có tội phải có đủ 02 điều kiện: Một là tội phạm được chứng minh theo trình tự luật định và hai là có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
          Quyền được đưa ra xét xử của một người bị nghi là thực hiện tội phạm cũng đồng nghĩa với trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh điều tra hành vi phạm tội của người đó theo một trình tự luật định và phải nhanh chóng đưa ra Tòa án xét xử đúng thời hạn, việc tuyên án phải được công khai kể cả trong những trường hợp xét xử kín. Việc ghi nhận nguyên tắc  suy đoán vô tội nhằm khắc phục sự định kiến của các cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đối với người bị tình nghi, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, đồng thời còn tạo điều kiện để những người này thực hiện quyền bào chữa của mình.
          Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. Đây không chỉ đơn thuần là việc đổi mới về kỹ thuật lập pháp đã tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, thể hiện việc Đảng và Nhà nước ta tôn trọng và thực hiện Công ước quốc tế mà còn thể hiện sự quan tâm, nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong việc đảm bảo quyền con người.
          Nguyên tắc suy đoán vô tội có quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa. Bởi vì nếu đã bị coi là có tội ngay từ khi chưa xét xử thì việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội chỉ còn là hình thức. Người bào chữa là người được đào tạo chuyên nghiệp về nghiệp vụ bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo. Họ được nghiên cứu hồ sơ vụ án trên cơ sở am hiểu các quy định của pháp luật và được bị cáo hoặc gia đình bị cáo ủy quyền để bảo vệ cho các quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo. Sự có mặt của người bào chữa nhằm đưa ra các luận cứ chứng minh sự vô tội của bị cáo hoặc đưa ra các lập luận đồng ý hay không đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát về tội danh cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Viện kiểm sát buộc tội. Đảm bảo quyền bào chữa là cơ sở quan trọng để bảo vệ quyền con người. Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định rõ quyền tự bào chữa hoặc nhờ Luật sư, người khác bào chữa của những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
          Ngoài ra, Điều 31 Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung chính xác các giai đoạn tố tụng và thuật ngữ thống nhất trong Bộ luật tố tụng hình sự về người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam về việc tôn trọng quyền con người của những người này. Khi họ bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật thì họ có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Còn đối với những người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác thì phải bị xử lý theo pháp luật.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây