Tìm hiểu nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” trong Hiến pháp sửa đổi bổ sung 2013

Chủ nhật - 14/09/2014 21:01
          Theo Từ điển tiếng Việt, “ tranh tụng ” có nghĩa là kiện cáo lẫn nhau. Theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ 2 từ “tranh luận” và “tố tụng”. Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng. Trong tố tụng bao giờ cũng có sự tham gia của các bên có quyền và (hoặc) lợi ích trái ngược nhau yêu cầu Tòa án phân xử. Để có cơ sở cho Tòa án có thể phân xử, pháp luật quy định cho các bên tham gia tố tụng quyền khởi kiện vụ việc ra trước Tòa án, chứng minh và tranh luận để bảo vệ yêu cầu của mình. Như vậy, tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của Tòa. Theo đó, tranh tụng là hoạt động của các bên tham gia xét xử đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hoặc toàn bộ quan điểm của phía bên kia; là cơ sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng đảm bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
          Tuy nhiên, vấn đề tranh tụng vẫn còn có nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau. Đến nay, chúng ta chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể vấn đề “tranh tụng”. “Tranh tụng” là nguyên tắc hay một thủ tục trong tố tụng cũng chưa được xác định rõ ràng. Thuật ngữ “tranh tụng” chỉ mới được đề cập trong các văn bản của Đảng và trong các tài liệu hội thảo nên hiện còn nhiều cách hiểu, nhận thức về “tranh tụng”, ngay cả Bộ luật tố tụng hình sự cũng chỉ có quy định về tranh luận là một giai đoạn của xét xử mà chưa có quy định thế nào là “tranh tụng”. Bản chất và mục đích yêu cầu của tranh tụng là quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án, bảo đảm các phán quyết là đúng đắn và chính xác. Phiên tòa xét xử là cuộc điều tra công khai, thực hiện bằng lời nói gồm có phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phần xét hỏi, phần tranh luận, nghị án và tuyên án. Tranh luận là giai đoạn các bên trình bày luận điểm của mình về những vấn đề đã được thẩm tra làm rõ ở giai đoạn trước, trên cơ sở đối chiếu với những quy định của pháp luật đề xuất hướng xử lý phù hợp. Kiểm sát viên trình bày quan điểm luận tội, tranh luận đối đáp về những vấn đề mà bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác đưa ra; và ngược lại bị cáo hoặc người bào chữa trình bày lời bào chữa, ý kiến phản bác đối với luận tội, đối đáp các ý kiến của kiểm sát viên và chủ thể khác có liên quan. Hội đồng xét xử là “ trọng tài ” điều hành việc tranh luận, đối đáp theo trình tự tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Như vậy, quá trình tranh tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án với ba chức năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và xét xử.
          Từ trước đến nay vấn đề tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định: "… Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác... Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng của phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời gian quy định"; Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã khẳng định: " Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" và mới đây nhất là Nghị quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội đã chỉ rõ: “ Kiểm sát viên phải chủ động, tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự… Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa”,…. Thể chế hoá các quan điểm chỉ đạo trên, BLTTHS năm 2003 và các văn bản có liên quan tuy không quy định cụ thể nhưng cũng có nhiều quy định chứa đựng nội dung của nguyên tắc tranh tụng như: nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc xác định sự thật vụ án, các quy định về quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, các quy định về tranh luận tại phiên tòa. Trong đó, Điều 222 BLTTHS năm 2003 quy định: “ Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa”.
          Qua 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003; thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW và thực tiễn đã phản ánh những mặt đạt được từ hoạt động tranh tụng tại phiên toà như: nâng cao vị trí vai trò của Kiểm sát viên, luật sư trong hoạt động TTHS; nâng cao chất lượng xét xử; nâng cao việc thực hiện quyền con người; nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Bên cạnh đó thực tiễn tranh tụng cũng phản ánh những mặt hạn chế như: tình trạng vi phạm các nguyên tắc cơ bản của TTHS; việc thực hiện các chức năng tố tụng còn nhiều bất cập; việc xét hỏi, tranh luận tại phiên toà chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng…Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trên bao gồm nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, có thể kể đến là do những hạn chế trong quy định của pháp luật; do trình độ chuyên môn và kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư… từ đó đòi hỏi phải có quy định cụ thể nhằm chế hóa được đường lối, tư tưởng của Đảng về cải cách tư pháp.
          Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2013 ( Hiến pháp năm 2013 ) phản ánh một cách biện chứng những bước tiến trong nhận thức lý luận và kết quả thực tiễn của quá trình cải cách bộ máy nhà nước, dân chủ hóa đời sống chính trị - pháp lý nói chung, của công cuộc cải cách tư pháp đầy khó khăn, thách thức nói riêng trong suốt những năm qua ở nước ta. Hiến pháp năm 2013 đã dành riêng Điều 103 để quy định về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án. Cả 7 khoản của Điều này đều có những nội dung mới, mang tính đột phá. Những nguyên tắc nền tảng đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp trước đây nay được bổ sung, phát triển phù hợp với các định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Hiến pháp năm 2013 đồng thời tạo cơ sở hiến định cho các khâu đột phá của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 về tổ chức và hoạt động xét xử của tòa án bằng việc bổ sung những nguyên tắc mới chưa được quy định trong các bản Hiến pháp trước, đó là nguyên tắc tranh tụng: “ Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (khoản 5, Điều 103) nguyên tắc hai cấp xét xử: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” (khoản 6, Điều 103). Để bảo đảm thực thi nguyên tắc tranh tụng, Hiến pháp năm 2013 đã hoàn thiện đáng kể quy định về quyền bào chữa, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong các quá trình tố tụng. Quy định này vừa là sự ghi nhận quyền con người phải được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm trong tố tụng tư pháp, vừa là một phương thức bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Không chỉ thế, quyền bào chữa và phương thức thực hiện quyền bào chữa trong suốt quá trình tố tụng hình sự. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là rất quan trọng, đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, từ đó tăng cường tính minh bạch, công khai, nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án. Việc quy định này sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các chức danh tư pháp (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán), của công dân trong quá trình thực hiện các quyền năng khi tham gia tranh tụng. Đồng thời thực tiễn xét xử sẽ thay đổi với bước tiến mới trọng tâm là hoạt động tranh tụng được bảo đảm, công bằng và dân chủ.
          Hiến pháp sửa đổi năm 2013 được ban hành với quy định về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử như nội dung nêu trên đặt ra yêu cầu cao hơn, trách nhiệm hơn đối với ngành Kiểm sát nhân dân. Để triển khai thi hành hiệu quả nguyên tắc này, theo chúng tôi cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
          1. Hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung, thể chế hóa nguyên tắc Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm trong các Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi, Luật tổ chức Toà án nhân dân sửa đổi,  Bộ luật Tố tụng hình sự,….và tích cực tham gia nghiên cứu những quy định về tranh tụng và cơ chế bảo đảm tranh tụng nói riêng, tạo cơ sở pháp lý, từng bước nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
          2. Tiếp tục nâng cao nhận thức của cán bộ, Kiểm sát viên trong toàn ngành, qua đó giúp Kiểm sát viên nhận thức đầy đủ, đúng đắn, bảo đảm các quy định của Hiến pháp nói chung và quy định về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử nói riêng được thực thi nghiêm túc.
          3. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ; nâng cao trình độ, năng lực của Kiểm sát viên nhằm xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên chuyên sâu, có kinh nghiệm, giỏi nghiệp vụ và có bản lĩnh nghề nghiệp. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương “nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên trong xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” và tổ chức phiên toà rút kinh nghiệm.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây