Bàn về nội dung: Cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu chứng cứ Theo yêu cầu của Tòa án trong giải quyết các vụ án dân sự

Thứ hai - 28/12/2020 03:55

Theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì vấn đề yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ được quy định tại Điều 106, theo đó đương sự có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu chứng cứ. Trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu chứng cứ. Trong trường hợp có yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu trữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Điều luật cũng quy định rõ thời gian cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Ngoài ra điều luật còn quy định về chế tài xử lý theo quy định của pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án, đồng thời cũng quy định Viện kiểm sát có quyền yêu cầu với nội dung như trên.

Thực tiễn qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình do Tòa án nhân dân án thành phố Hải Dương thụ lý, giải quyết trong năm 2020 cho thấy một số vụ án liên quan đến các quan hệ tranh chấp của các đương sự (nhất là quan hệ tranh chấp liên quan đến đất đai), trong quá trình Tòa án đã có quyết định yêu cầu cơ quan có thẩm quyền (một số phòng, đơn vị trực thuộc UBND thành phố Hải Dương) cung cấp tài liệu, chứng cứ. Có một số vụ án Viện kiểm sát và Tòa án đã có văn bản đôn đốc, tuy nhiên các cơ quan này không cung cấp kịp thời tài liệu, chứng cứ cho Tòa án theo quy định dẫn đến việc giải quyết một số vụ án kéo dài hoặc phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Có thể lấy một số ví dụ tại một số vụ án cụ thể như sau:

Vụ án dân sự “Tranh chấp ngõ đi chung” do Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương thụ lý số 08/2020/TLST-DS ngày 07/02/2020 giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn Hùng, bị đơn bà Trương Thúy Huyền. Quá trình giải quyết để có căn cứ giải quyết vụ án, ngày 20/7/2020 Tòa án nhân dân có văn bản số 133 yêu cầu Phòng Tài nguyên Môi trường thành phố Hải Dương cung cấp các nội dung “Ngõ đi liên quan đến 3 thửa đất số 118, 119, 121 tờ bản đồ số 08 địa chỉ tại khu 9, phường Thanh Bình, thành phố Hải Dương thuộc quyền quản lý của Nhà nước hay thuộc quyền quản lý, sử dụng của gia đình ông Diễn, bà Chuyển, anh Tiến; Quan điểm của Phòng Tài nguyên Môi trường thành phố về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 121 (ông Hùng bà Huyền) và thửa số 118 (ông Diễn bà Chuyền) cũng như việc xác định phần đất làm lối đi liên quan đến 3 thửa đất số 118, 119, 121 tờ bản đồ số 8 ở khu9, phường Thanh Bình, thành phố Hải Dương”.

Vụ án dân sự “Chia tài sản chung sau ly hôn” do Tòa án nhân dân nhân dân thành phố Hải Dương thụ lý số 235/2020/TLST-HNGĐ ngày 26/4/2020 giữa nguyên đơn chị Trần Thị Chắn, bị đơn anh Trần Minh Hưng. Quá trình giải quyết để có căn cứ giải quyết vụ án, ngày 01/6/2020 Tòa án nhân dân có văn bản số 98 yêu cầu “Phòng Tài nguyên Môi trường thành phố Hải Dương cung cấp hồ sơ địa chính đối với thửa đất số 15 tờ  bản đồ số 17 địa chỉ khu 3, phường Nhị Châu, thành phố Hải Dương. Quan điểm của Phòng Tài nguyên Môi trường thành phố Hải Dương về việc kê khai đất đai của bà Trần Thị Hạnh đối với thửa đất trên”.

Vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” do Tòa án thành phố Hải Dương thụ lý số 59/2017/TLST-DS ngày 03/10/2017 giữa nguyên đơn ông Nguyễn Quang Mận, bị đơn bà Đào Thị Bình. Quá trình giải quyết vụ án, ngày 19/6/2020 Tòa án nhân dân có văn bản số 12 yêu cầu UBND phường Tân Bình, thành phố Hải Dương cung cấp chứng cứ về diện tích đất đang tranh chấp của các bên đương sự có thuộc UBND phường quản lý không, có thuộc đất quy hoạch không. Các vụ án nêu trên sau khi Tòa án có quyết định yêu cầu nhưng các đơn vị được yêu cầu không cung cấp đúng tài liệu, chứng cứ đúng thời hạn quy định dẫn đến việc Tòa án phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và quy định của pháp luật chưa được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất.

Trong những trường hợp này yêu cầu đối với cán bộ, Kiểm sát viên được phân công cần phối hợp với Tòa án xác lập căn cứ của việc đã yêu cầu nhưng cơ quan, tổ chức được yêu cầu chưa cung cấp, hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ chậm. Đồng thời báo cáo kịp thời lãnh đạo Viện căn cứ khoản 2 Điều 5 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Điều 21, Điều 57 Bộ luật tố tụng dân sự, để ra văn bản kiến nghị kiến nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Dương chỉ đạo đơn vị trực thuộc phải thực hiện đúng quy định tại Điều 106 BLTTDS nhằm giải quyết các vụ án được kịp thời đảm bảo được quyền lợi đương sự.

                                                                                                                          Nguyễn Văn Nhiệm
VKSND tp Hải Dương

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây