- Trang nhất
- Viện KSND tỉnh
- Viện KSND cấp huyện
- Tin Tức
- Nghiệp vụ
- Tin hoạt động
- Văn bản
- Lịch làm việc
- Họp không giấy
Khi xét xử các vụ án hình sự, ngoài việc xác định tội danh, hình phạt đối với các bị cáo, Bản án còn giải quyết những nội dung khác như: yêu cầu bồi thường dân sự, xử lý vật chứng. Qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, nhận thấy việc xử lý tiền do phạm tội còn có các quan điểm khác nhau:
Ví dụ: Ngày 22/2/2020. Nguyễn Văn H, sinh năm 1994, trú tại phường HT, thành phố HD, tỉnh HD có hành vi trộm cắp chiếc điện thoại Sam sung Galaxy của chị Mai Thị T, trú tại phường TB, thành phố HD và mang đến cửa hàng mua bán điện thoại của anh Đỗ Duy T bán cho anh T được số tiền 3 triệu đồng, số tiền này đã bị Cơ quan điều tra thu giữ. Sau đó Cơ quan điều tra đã thu giữ chiếc điện thoại trả lại chị Mai Thị T. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, chị T không yêu cầu H phải bồi thường về dân sự, anh Đỗ Duy T có quan điểm “không yêu cầu H bồi hoàn số tiền 3 triệu đồng mà anh T đã bỏ ra mua điện thoại”.
Ngày 11/12/2020, Tòa án nhân dân thành phố HD, tỉnh HD mở phiên tòa xét xử Nguyễn Văn H, ngoài việc xác định tội danh và hình phạt đối với bị cáo H, HĐXX còn nhận định: Số tiền 3 triệu đồng thu giữ của bị cáo H là tiền bán điện thoại do trộm cắp mà có vào ngày 22/02/020 cho anh Đỗ Duy T, tài sản trộm cắp đã thu hồi và được trả lại cho bị hại. Nay anh Đỗ Duy T không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền này, cho bị cáo. Nên số tiền 3 triệu đồng thu giữ của H trả lại cho H.
Xung quanh phán quyết nên trên của Hội đồng xét xử có 02 luồng quan điểm khác nhau
+ Quan điểm thứ nhất: Việc Hội đồng xét xử tuyên như vậy là đúng vì anh T không yêu cầu bị cáo hoàn trả và đã cho bị cáo số tiền trên.
+ Quan điểm thứ hai: Việc xử lý số tiền trên là chưa đúng căn cứ pháp luật vì:
- Thứ nhất: Đây là tiền do bán tài sản trộm cắp mà có. Số tiền 3 triệu đồng là tiền do anh Đỗ Duy T- người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bỏ ra mua tài sản. Nếu anh T yêu cầu thì bị cáo H phải hoàn trả số tiền trên. Nay, anh Đỗ Duy T không yêu cầu bị cáo H hoàn trả thì điều đó không đồng nhất với việc xác lập quyền sở hữu tài sản số tiền đó của bị cáo H.
Tại Điều 221 Bộ luật dân sự 2015 chỉ quy định 8 căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản, trong đó không quy định trường hợp được sở hữu tài sản do phạm tội mà có, hay chủ sở hữu không yêu cầu trả lại tài sản thì người đang chiếm hữu được quyền sở hữu đối với tài sản đó.
- Thứ hai: Trong trường hợp này, anh Đỗ Duy T đã không yêu cầu nhận lại tài sản là số tiền 3 triệu đồng, điều đó đồng nghĩa với việc anh T từ bỏ quyền sở hữu tài sản thì không có quyền tặng cho tài sản mà không thuộc về mình cho người khác.
- Thứ ba: Đây là số tiền do người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Đỗ Duy T bỏ ra để mua điện thoại, khi mua không biết điện thoại do trộm cắp mà có, quan hệ mua bán của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ngay tình. Nay đã thu được số tiền trên thì phải hoàn trả cho họ, nếu người thứ ba ngay tình không nhận lại thì phải xử lý theo quy định của pháp luật về xử lý vật chứng, đó là tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tại Điều 47 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy được áp dụng đối với.
a ...
b. Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội”.
Tại điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:“Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước”.
- Thứ tư: Về mặt thực tiễn, việc trả lại cho bị cáo H số tiền 3 triệu đồng vô hình chung là sự công nhận về mặt pháp lý quyền sở hữu tài sản do người phạm tội có được từ việc bán tài sản trộm cắp.
Do vậy, đối với vấn đề này, chúng tôi rất mong sớm có sự hướng dẫn áp dụng thống nhất, đúng pháp luật làm cơ sở để giải quyết những vụ việc tương tự khác.
Lưu Mạnh Hùng, Nguyễn Quang Hưng Viện KSND Tp Hải Dương |
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
© 2017 Bản quyền của VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG.