Hoạt động giám định tư pháp góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thông qua việc cung cấp những chứng cứ mang tính khoa học, có ý nghĩa quyết định đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự, giảm tỷ lệ cải sửa, hủy bản án của cấp sơ thẩm.
Thứ nhất, chưa có sự đồng bộ giữa quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Luật giám định tư pháp năm 2012 được sửa đổi, bổ sung ngày 10/6/2020, cụ thể như: Khoản 1 Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự”.
Khoản 4 Điều 22 Luật giám định tư pháp quy định: “Người yêu cầu giám định chỉ được thực hiện quyền tự yêu cầu giám định trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm”.
Như vậy, về vấn đề yêu cầu giám định, Luật giám định tư pháp chỉ đề cập đến vụ án dân sự, trong khi Bộ luật tố tụng dân sự điều chỉnh cả vụ án và việc dân sự. Bản kết luận giám định trong giải quyết việc dân sự là chứng cứ rất quan trọng; trong nhiều việc dân sự, kết luận giám định là chứng cứ duy nhất để Tòa án ra Quyết định (ví dụ: Tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi…).
Bên cạnh đó, quy định về thời điểm để đương sự thực hiện quyền yêu cầu giám định "trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử" chưa đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa của các đương sự, chưa đảm bảo nguyên tắc đánh giá chứng cứ phải (khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác). Bởi lẽ, khoản 5 Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự về nguồn chứng cứ ghi: Kết luận giám định là một nguồn chứng cứ và sẽ được coi là chứng cứ nếu việc giám định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định, nguồn chứng cứ này cần được xác định xuyên suốt các giai đoạn tố tụng.
Thứ hai, Bộ luật tố tụng dân sự chỉ xác định thời điểm chấm dứt quyền mà không quy định thời hạn thực hiện quyền yêu cầu giám định, dẫn đến quyền này không được thực hiện. Cụ thể, thời điểm xác lập quyền yêu cầu giám định của đương sự là khi Tòa án thông báo không chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định. Vấn đề đặt ra là: Trong nhiều trường hợp, Tòa án ra thông báo không chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định khi gần hết thời hạn chuẩn bị xét xử, nên đương sự không kịp thực hiện yêu cầu giám định của mình thì xử lý như thế nào?
Thứ ba, chưa có quy định cụ thể về việc Tòa án từ chối yêu cầu trưng cầu giám định của đương sự. Khoản 1 Điều 22 Luật giám định tư pháp quy định: “Người yêu cầu giám định có quyền gửi văn bản yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu cầu thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu trưng cầu giám định, phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản. Hết thời hạn nói trên hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định”.
Như vậy, việc Tòa án từ chối yêu cầu trưng cầu giám định của đương sự, xảy ra trong 02 trường hợp đó là: Ban hành thông báo từ chối yêu cầu hoặc không có văn bản thể hiện việc chấp thuận hay không chấp thuận yêu cầu, mà để hết thời hạn thông báo (07 ngày). Vấn đề đặt ra là: Trong trường hợp Tòa án không ban hành văn bản từ chối, thì đương sự chứng minh cho tổ chức được yêu cầu giám định về việc Tòa án từ chối yêu cầu trưng cầu giám định của đương sự (đương sự không có tài liệu để cung cấp cho tổ chức được yêu cầu giám định).
3. Đề xuất, kiến nghị
Để đảm bảo quy định về yêu cầu giám định được áp dụng thống nhất, chính xác, hiệu quả trong thực tiễn giải quyết vụ việc dân sự, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn những nội dung sau:
1. Cần sửa đổi Điều 22 Luật giám định tư pháp năm 2012, được sửa đổi, bổ sung ngày 10/6/2020 theo hướng điều chỉnh vấn đề trưng cầu giám định, yêu cầu giám định cả trong vụ án dân sự và việc dân sự như phân tích ở trên.
2. Cần mở rộng thời hạn thực hiện quyền yêu cầu giám định của đương sự trong cả quá trình giải quyết vụ án sơ thẩm và phúc thẩm. Thực tế hiện nay tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử vẫn chấp nhận yêu cầu giám định vì lý do chứng cứ không đầy đủ; đây cũng là căn cứ để cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm theo Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Việc chấp nhận yêu cầu giám định ngay cả tại phiên tòa, mà không bị giới hạn về thời gian theo Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 giúp đảm bảo sự chính xác trong việc đánh giá chứng cứ bản án sơ thẩm bị hủy, sửa vì lý do vi phạm thủ tục giám định.
|
Phạm Văn Ngoan
VKSND huyện Bình Giang |