Điều 93 BLTTDS 2015 quy định như sau: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”.
Ảnh minh hoạ (Nguồn: Internet)
Chứng cứ đóng vai trò then chốt trong việc giải quyết một vụ việc dân sự. Một vụ án có được kết quả “thấu tình đạt lý” hay không là đều phụ thuộc phần lớn vào việc thu thập và đánh giá chứng cứ. Thông qua việc cung cấp chứng cứ mà các đương sự sẽ có được cơ sở vững chắc để chứng minh được những yêu cầu của mình; việc nhận định, đánh giá chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng là căn cứ để xác định tình tiết của vụ, việc dân sự một cách chính xác đây là hoạt động vô cùng quan trọng nhằm để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân và bảo vệ pháp luật.
Theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì việc cung cấp tài liệu, chứng cứ là trách nhiệm thuộc về các đương sự, ngoài ra tại khoản 2 Điều 6 BLTTDS cũng quy định: “Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định”. Theo đó, Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp họ không thể tự mình thực hiện được và trong những trường hợp pháp luật quy định. Tuy nhiên việc không quy định rõ về trách nhiệm hỗ trợ của Tòa án nên trong quá trình giải quyết vụ án khi thấy đương sự chưa thu thập đủ bằng chứng cần thiết hay việc thu thập chứng cứ của đương sự không hiệu quả thì thẩm phán sẽ tự mình tiến hành thu thập chứng cứ.
Tại khoản 4 Điều 2 Luật TCTAND 2014 quy định: “Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính…”. Điều luật trên chỉ quy định thẩm quyền chung của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ đối với các vụ việc được liệt kê trên mà chưa đề cập rõ về việc “xác minh, thu thập” tài liệu, chứng cứ, cụ thể như thế nào.
Do quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ để giải quyết một vụ án còn chưa rõ ràng, dẫn đến một số Thẩm phán có thể còn chưa phân biệt được khi nào thì mình thu thập chứng cứ, khi nào thì không cần tự mình thu thập tài liệu chứng cứ, dẫn đến nhiều vụ án còn kéo dài thời hạn giải quyết do khó khăn trong việc thu thập chứng cứ. Thực tế nếu Thẩm phán tự mình trực tiếp thu thập chứng cứ, sau đó xét xử theo chứng cứ do tự mình thu thập có thể tạo nên định kiến từ trước, điều này dẫn tới việc Tòa án có thể coi trọng nguồn chứng cứ do tự mình thu thập được và xem nhẹ các nguồn chứng cứ khác do các bên thu thập. Việc này có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây bất lợi cho một bên nào đó, ảnh hưởng đến nguyên tắc vô tư, khách quan của Tòa án. Thực tế hiện nay, khi các đương sự gửi đơn đến Tòa án, đa phần việc thu thập chứng cứ đều dựa vào Tòa án. Việc Tòa án chủ động tham gia việc thu thập tài liệu cho đương sự vô hình trung đã làm thay cho việc của đương sự khiến họ trông chờ vào Tòa án, mặt khác khiến cho cá nhân và tổ chức lợi dụng vào việc này mà gây khó khăn cho người dân hoặc từ chối cung cấp chứng cứ cho các đương sự với lý do chỉ cung cấp khi Tòa án yêu cầu. Việc sửa đổi quy định này là cần thiết đảm bảo việc để đương sự tự thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án là phù hợp với thực tế hiện nay.
Ngày 24/6/2024, tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025 (Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024), thay thế cho Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Tại Luật này có một số điểm mới trong đó có nội dung liên quan đến vấn đề thu thập chứng cứ của Tòa án, cụ thể:
“Điều 15. Về việc thu thập tài liệu, chứng cứ trong xét xử, giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự và các vụ việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án:
1. Trong vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự và các vụ việc khác, các bên thu thập, cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án theo quy định của pháp luật.
2. Tòa án hướng dẫn cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ trong vụ án hành chính, vụ việc dân sự và các vụ việc khác theo quy định của pháp luật.
3. Tòa án yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật khi có yêu cầu của Tòa án.
4. Tòa án hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ bằng việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ trong vụ án hành chính, vụ việc dân sự và các vụ việc khác theo quy định của pháp luật trong trường hợp các bên đã thực hiện các biện pháp cần thiết nhưng không thu thập được tài liệu, chứng cứ và đề nghị Tòa án hỗ trợ.
5. Tòa án tiếp nhận tài liệu, chứng cứ do cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp, các bên giao nộp.
6. Tòa án kiểm tra, thẩm định tính xác thực của tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật.
7. Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp, các bên giao nộp, làm rõ tại phiên tòa, phiên họp theo quy định của pháp luật và kết quả tranh tụng để xét xử, giải quyết vụ án, vụ việc”.
Như vậy, so với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 quy định Tòa án không có trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ trong vụ án dân sự. Tòa án chỉ đóng vai trò là chủ thể hướng dẫn, hỗ trợ đương sự thu thập tài liệu, chứng cứ trong trường hợp luật định. Trong quá trình giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử sẽ dựa vào các chứng cứ của các bên đương sự cung cấp để thẩm tra, xác minh, đánh giá chứng cứ, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để giải quyết vụ án.
Việc quy định Tòa án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ phù hợp với thực tiễn và xu thế trên thế giới hiện nay, phù hợp với các nguyên tắc pháp luật và các quy định về tố tụng hiện hành; nâng cao trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong việc tự bảo vệ quyền sở hữu khi tham gia các giao dịch dân sự. Thực hiện tốt điều này sẽ đảm bảo việc xét xử các vụ, việc dân sự sẽ khách quan, bảo được tốt nhất vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân, bảo vệ pháp luật và đảm bảo tính công bằng trong xã hội.
|
Bùi Thị Hoa, Vũ Thị Lệ
Viện KSND thị xã Kinh Môn |