- Trang nhất
- Viện KSND tỉnh
- Viện KSND cấp huyện
- Tin Tức
- Nghiệp vụ
- Tin hoạt động
- Văn bản
- Lịch làm việc
- Họp không giấy
Tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV đã ban hành Nghị quyết số 41/2017/QH14 về thời gian thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 là ngày 01/01/2018.
BLTTHS năm 2015 gồm 510 điều, được bố cục thành 9 phần, 36 chương. Việc tách chương quyết định việc truy tố khỏi phần “khởi tố, điều tra vụ án hình sự” để xây dựng thành một phần độc lập (Phần thứ ba: Truy tố) là một bước tiến cụ thể hóa và nhằm khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn do cách quy định khái quát của Bộ luật hiện hành và bảo đảm phù hợp với Luật tổ chức VKSND năm 2014. Trên cơ sở kế thừa các quy định về quyết định truy tố trong Phần thứ hai của BLTTHS hiện hành, BLTTHS năm 2015 xây dựng Phần thứ ba về truy tố, gồm 02 chương: Chương XVIII: Những quy định chung; Chương XIX: Quyết định việc truy tố bị can, từ Điều 236 đến Điều 249 nhằm bảo đảm phân định rành mạch các giai đoạn tố tụng và tạo cơ sở để quy định cụ thể thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn trong giai đoạn truy tố.
- BLTTHS năm 2015 bổ sung 2 điều luật (236 và 237) quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và khi kiểm sát trong giai đoạn truy tố.
- Việc giao nhận Kết luận điều tra và hồ sơ vụ án không được quy định trong BLTTHS năm 2003, tuy nhiên BLTTHS năm 2015 đã khắc phục hạn chế này khi quy định cụ thể về việc Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giao hồ sơ vụ án kèm theo bản kết luận điều tra đề nghị truy tố và vật chứng (nếu có), trường hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo (nếu có) đã đầy đủ so với bảng kê tài liệu, vật chứng và bản kết luận điều tra đã được giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì Viện kiểm sát nhận hồ sơ vụ án; trường hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo (nếu có) không đủ so với bảng kê tài liệu, vật chứng hoặc bản kết luận điều tra chưa được giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì chưa nhận hồ sơ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra bổ sung tài liệu, vật chứng; yêu cầu giao bản kết luận điều tra cho bị can hoặc người đại diện của bị can nhằm tạo sự thống nhất trong thực tiễn áp dụng.
- BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể về thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát tại Điều 239. Theo đó, Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố là Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra. Đồng thời, để xác định thẩm quyền truy tố đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm sát trong giai đoạn điều tra, Bộ luật quy định: Viện kiểm sát cấp trên quyết định việc truy tố. Chậm nhất là 02 tháng trước khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát cấp trên phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án để cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Ngay sau khi quyết định truy tố, Viện kiểm sát cấp trên ra quyết định phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử; sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng, Viện kiểm sát cấp dưới có thẩm quyền thực hành. Việc quy định cụ thể như trên nhằm tháo gỡ những vướng mắc thời gian qua liên quan đến việc ủy quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa cho rằng Viện kiểm sát cấp trên không có quyền nhưng lại ủy quyền; đồng thời, bảo đảm để Kiểm sát viên nắm chắc vụ án, thực hiện tranh tụng tại phiên tòa.
- Thời hạn giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án được quy định là 03 ngày trong BLTTHS năm 2003. Tại Điều 240 BLTTHS năm 2015 bổ sung trường hợp đặc biệt, vì lý do khách quan thì thời hạn giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can, người đại diện theo pháp luật của bị can có thể kéo dài nhưng không quá 10 ngày. Với quy định như trên đã tháo gỡ phần nào khó khăn trong những vụ án có đông bị can hoặc những vụ án có bị can ở xa, đang tạm giam ở xa.
- Tại Điều 240 BLTTHS năm 2015 Bổ sung trách nhiệm của Viện kiểm sát cấp dưới phải gửi các quyết định tố tụng đến Viện kiểm sát cấp trên; bổ sung quy định Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ các quyết định này nếu thấy không có căn cứ hoặc trái pháp luật. Với việc quy định như vậy đã giúp tăng cường kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ; đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát cấp trên được quy định trong Luật tổ chức VKSND năm 2014 “rút, đình chỉ, hủy bỏ các quyết định tố tụng của cấp dưới”.
- Việc tách, nhập vụ án trong giai đoạn truy tố không được quy định trong BLTTHS năm 2003. Chính điều này đã gây những khó khăn cho Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố khi có bị can trong một vụ án bỏ trốn hay chết mà không thể tách ra để giải quyết riêng. BLTTHS năm 2015 đã bổ sung điều 242 quy định cụ thể các trường hợp tách, nhập vụ án. Theo đó, bên cạnh việc bảo đảm các yêu cầu chung thì việc tách vụ án chỉ được tiến hành trong 3 trường hợp (Bị can bỏ trốn; Bị can mắc bệnh hiểm nghèo; Bị can bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh); đồng thời, quy định 3 trường hợp có thể nhập vụ án (Bị can phạm nhiều tội; Bị can phạm tội nhiều lần; Nhiều bị can cùng tham gia một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có). Việc quy định này nhằm tháo gỡ những vướng mắc thời gian qua do thiếu quy định này, một số Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra với lý do để điều tra bổ sung, nhưng thực chất là để làm thủ tục nhập hoặc tách vụ án.
- BLTTHS năm 2003 chỉ quy định “trong trường hợp truy tố thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án”. Chính quy định như trên đã gây nên những bất cập trong các vụ án có bị can ở xa hoặc bị can tạm giam ở xa khó có thể tống đạt ngay để đảm thời hạn chuyển hồ sơ đến Tòa án. BLTTHS năm 2015 bổ sung trường hợp vụ án phức tạp thì thời hạn chuyển hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đến Tòa án có thể kéo dài nhưng không quá 10 ngày. Trường hợp vụ án có bị can bị tạm giam thì trước khi hết thời hạn tạm giam 7 ngày thì Viện kiểm sát thông báo cho Tòa án biết để xem xét, quyết định việc tạm giam bị can khi nhận hồ sơ vụ án nhằm nhằm tháo gỡ khó khăn của Viện kiểm sát đối với những vụ án phức tạp, có đông bị can.
- BLTTHS năm 2003 quy định căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung bao gồm: còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên để bảo đảm việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung được tiến hành chặt chẽ, tránh lạm dụng, kéo dài thời gian tố tụng, tại Điều 245 BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể hơn căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung; trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát nêu trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, cụ thể các căn cứ, gồm: còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác; có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Đồng thời bổ sung trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện đầy đủ yêu cầu nêu trong quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung của Viện kiểm sát; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà không thực hiện được thì phải nêu rõ lý do bằng văn bản. Kết thúc điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra phải có bản kết luận điều tra bổ sung. Bản kết luận điều tra bổ sung phải ghi rõ kết quả điều tra bổ sung, quan điểm giải quyết vụ án. Nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản kết luận điều tra trước đó thì Cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra mới thay thế. Việc chuyển hồ sơ vụ án kèm theo kết luận điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát; việc giao, nhận, gửi thông báo kết quả điều tra bổ sung được thực hiện theo quy định tại Điều 232 và Điều 238 của BLTTHS.
- BLTTHS năm 2003 không quy định giải quyết yêu cầu trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án. Nhằm bảo đảm tính linh hoạt trọng thực tiễn, có những trường hợp Viện kiểm sát có thể bổ sung chứng cứ, tài liệu, không nhất thiết phải chuyển cho Cơ quan điều tra dẫn đến kéo dài thời hạn giải quyết thì tại Điều 246 BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể như sau: nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung có căn cứ mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng cứ; trường hợp Viện kiểm sát không thể tự điều tra bổ sung được thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra. Trường hợp kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản nội dung bản cáo trạng trước đó thì Viện kiểm sát phải ra bản cáo trạng mới thay thế và chuyển hồ sơ đến Tòa án. Trường hợp kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết. Nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung không có căn cứ thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do, giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án.
- BLTTHS năm 2003 quy định căn cứ tạm đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát bao gồm: khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác mà có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y; khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu. Tuy nhiên với những khó khăn, vướng mắc trong thời gian qua như khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa có kết quả thì BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm căn cứ khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố.
- BLTTHS năm 2003 không quy định về phục hồi vụ án trong giai đoạn truy tố. Chính điều này đã gây khó khăn cho Viện kiểm sát trong trường hợp đã bắt được bị can bỏ trốn trong giai đoạn truy tố mà không có căn cứ quy định về việc phục hồi truy tố. Vì vậy tại Điều 249 BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định khi có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định phục hồi vụ án nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu vụ án bị đình chỉ theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 157 của BLTTHS mà bị can không đồng ý và yêu cầu phục hồi vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định phục hồi vụ án.
- BLTTHS năm 2003 không quy định về việc tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án và quyết định phục hồi vụ án. Tuy nhiên để tạo sự thống nhất trong thực hiện thì Điều 247, 248 và 249 BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể các nội dung trong quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án và quyết định phục hồi vụ án. Theo đó, quyết định tạm đình chỉ vụ án phải ghi rõ lý do, căn cứ tạm đình chỉ vụ án, các vấn đề khác có liên quan và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của BLTTHS; quyết định đình chỉ vụ án phải ghi rõ lý do và căn cứ đình chỉ vụ án, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, xử lý vật chứng, tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), các vấn đề khác có liên quan và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của BLTTHS; quyết định phục hồi vụ án phải ghi rõ lý do và căn cứ phục hồi vụ án, các vấn đề khác có liên quan và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của BLTTHS.
Nguyễn Thị Nhung VKSND huyện Kim Thành |
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
© 2017 Bản quyền của VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG.