Trao đổi nghiệp vụ: Vướng mắc, bất cập khi giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế liên quan đến di chúc bị tuyên vô hiệu trong thực tiễn và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hình thức của di chúc

Thứ năm - 06/03/2025 03:43
Tranh chấp về chia di sản thừa kế theo di chúc, nhất là đối với di sản là quyền sử dụng đất là loại tranh chấp xảy ra khá phổ biến hiện nay. Rất nhiều vụ án liên quan đến di chúc rất phức tạp, việc giải quyết kéo dài do thời gian xác lập di chúc đến khi có tranh chấp thường rất lâu, khó khăn trong việc thu thập chứng cứ, trong khi các đương sự lại không hợp tác… Số vụ án tuyên di chúc vô hiệu tương đối nhiều và đa dạng, nguyên nhân có thể là do trình độ hiểu biết pháp luật của người để lại di sản còn hạn chế, không đảm bảo quy định về hình thức của di chúc hoặc nội dung di chúc không rõ ràng, có trường hợp đương sự cho rằng chữ viết, chữ ký trong di chúc không phải của người để lại di sản, nhưng do thời gian lâu không thu thập được mẫu chữ viết, chữ ký… Đối với các tranh chấp về thừa kế khi di chúc bị tuyên vô hiệu thì Tòa án sẽ chia di sản theo quy định pháp luật, tuy nhiên, việc trích trả công sức cho người quản lý di sản hiện nay còn chưa thống nhất khi giải quyết.
Ảnh minh họa (nguồn: Internet)
Một số vụ án thực tế liên quan đến di chúc không có hiệu lực do vi phạm quy định về hình thức như:
Vụ án thứ nhất: Vụ án Tranh chấp chia di sản thừa kế giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị L, bị đơn cụ Trần Thị M. Cụ M cung cấp bản di chúc viết tay của cụ Nguyễn Đức C (chồng cụ M, mất năm 1989), các con của cụ C với người vợ trước, trong đó có bà L cho rằng di chúc là giả mạo, cụ C không để lại di chúc, yêu cầu chia di sản là quyền sử dụng đất theo pháp luật. Không có người chứng kiến việc cụ C tự viết và không có tài liệu xác định chữ viết, chữ ký của cụ C. Bản án sơ thẩm của TAND huyện M, tỉnh T (năm 2021) tuyên xử di chúc vô hiệu toàn bộ do vi phạm quy định về hình thức. Trong vụ án này, Viện kiểm sát và Tòa án đều thống nhất quan điểm chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật, nhưng Viện kiểm sát không có quan điểm về việc trích trả công sức quản lý di sản của cụ M, trong khi Tòa án quyết định trích áng công sức trông nom, duy trì di sản cho cụ M là 30m2 đất vườn thừa.
Vụ án thứ hai: Vụ án Tranh chấp quyền sử dụng đất và chia di sản thừa kế, nguyên đơn Vũ Như P, Vũ Văn P1; bị đơn Vũ Như D, Vũ Văn D1. Cụ Vũ Như H và cụ Q có 05 người con, cụ H chết năm 1988 không để lại di chúc, cụ Q chết năm 2014. Nguyên đơn khởi kiện chia di sản thừa kế của cụ H theo pháp luật, chia di sản thừa kế của cụ Q theo di chúc lập năm 2010. Bản án sơ thẩm của TAND huyện H (năm 2020) và Bản án phúc thẩm của TAND tỉnh T nhận định: Bản di chúc của cụ Q được đánh máy toàn bộ, người lập di chúc đã điểm chỉ ngón trỏ bàn tay phải vào bản di chúc và bản di chúc được UBND phường chứng thực nhưng không có người làm chứng ký xác nhận vào bản di chúc, vi phạm quy định về thủ tục nên vô hiệu toàn bộ và phân chia di sản theo quy định pháp luật. Bản án sơ thẩm không tuyên về trích trả công sức quản lý di sản. Bản án phúc thẩm tuyên trích trả công sức quản lý di sản bằng tiền cho 04 người.
Vụ án thứ ba: Vụ Tranh chấp thừa kế tài sản giữa nguyên đơn Trần Thị M, bị đơn Trần Văn B, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Văn H. Chị M và anh H được bà Trần Thị T (sống độc thân) nhận nuôi, bà T chết năm 2011. Năm 2005 bà T lập di chúc để lại quyền sử dụng đất cho anh B là cháu, di chúc có người làm chứng và được UBND xã chứng thực. Năm 2010 anh H chở bà T ra UBND xã nộp đơn xin rút di chúc nêu trên lưu tại UBND xã, bà T không biết chữ, văn bản rút do anh H viết, bà T điểm chỉ. Bản án sơ thẩm năm 2023 của TAND huyện N, tỉnh T tuyên xử di chúc không có hiệu lực pháp luật. Bản án chia di sản theo pháp luật và tuyên xác định công sức quản lý, trông coi di sản thừa kế của vợ chồng anh B là 50 triệu đồng = 100m2 đất.
Ngoài ra, có rất nhiều vụ án liên quan đến di chúc có công chứng, chứng thực, đảm bảo đúng quy định về hình thức của di chúc nhưng vẫn bị tuyên vô hiệu một phần, công nhận hiệu lực một phần, do di sản là tài sản chung của vợ chồng nhưng chỉ có một người lập di chúc định đoạt toàn bộ di sản nên chỉ công nhận hiệu lực đối với phần di sản của người có di chúc, còn vô hiệu một phần, phần này được chia theo quy định pháp luật.
* Quan điểm của tác giả: Khi giải quyết tranh chấp thừa kế liên quan đến di chúc, Tòa án cần xem xét toàn bộ tài liệu, chứng cứ trong cả quá trình để đánh giá đâu mới thực sự là ý chí, nguyện vọng của người lập di chúc, áp dụng các quy định pháp luật về giải thích di chúc, chứ không chỉ áp dụng quy định về hình thức của di chúc để tuyên bố di chúc vô hiệu. Như vậy, sẽ không đảm bảo nguyên tắc tôn trọng ý chí tự nguyện trong quan hệ dân sự. Đối với Vụ án thứ hai, theo tác giả Tòa án không công nhận hiệu lực của di chúc do di chúc được đánh máy, có điểm chỉ, có chứng thực nhưng không có người làm chứng xác nhận nên không hợp pháp là chưa đủ thuyết phục. Trường hợp này Tòa án phải có căn cứ chứng minh người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc điểm chỉ thì mới thuộc trường hợp phải có người làm chứng ký xác nhận theo khoản 2 Điều 658 BLDS năm 2005, trường hợp không có căn cứ chứng minh thì phải xác định là di chúc hợp pháp, bởi di chúc đã được cơ quan có thẩm quyền chứng thực. Đối với Vụ án thứ ba, cần thiết phải đánh giá lại hình thức của đơn xin rút di chúc, bởi đơn xin rút là do anh H (là người bị ảnh hưởng quyền lợi nếu di chúc có hiệu lực) viết, bà T không biết chữ, có điểm chỉ, trong khi bản di chúc trước đó có người làm chứng, được chứng thực, từ đó đánh giá tài liệu nào là khách quan, đúng với ý chí, nguyện vọng của người để lại di sản.
Đối với việc trích trả công sức cho người quản lý di sản trong các vụ án tranh chấp thừa kế nêu trên cho thấy có sự không thống nhất giữa Viện kiểm sát, Tòa án và giữa Tòa án các cấp với nhau, có nơi áp dụng, có nơi không, có nơi trích trả bằng hiện vật, có nơi trích trả bằng tiền, còn định mức thì tùy nghi, có bản án nêu là “áng trích” hoặc “trích áng”, có bản án là “trích trả”... trong khi Điều 618 BLDS năm 2015 không có quy định về nội dung này.
* Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan đến hình thức của di chúc:
Thứ nhất, bổ sung thêm hình thức di chúc đối với hình thức ghi âm, ghi hình hoặc dữ liệu điện tử khác đối với di chúc để phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại.
Thứ hai, bổ sung vào Điều 634 BLDS năm 2015 đối với người làm chứng ký hoặc điểm chỉ vào di chúc. Trường hợp có căn cứ xác định chữ ký, điểm chỉ đúng là của người lập di chúc và có người làm chứng sau này xác nhận thì những trường hợp này nên xem xét công nhận di chúc để đảm bảo tôn trọng ý chí của người lập di chúc.
Thứ ba, khoản 2 Điều 630 BLDS năm 2015 nên bổ sung quy định về hình thức di chúc miệng và có quy định rõ về hình thức, thời điểm thể hiện sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với việc lập di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm đảm bảo tôn trọng ý chí và đảm bảo quyền lợi cho nhóm đối tượng này.
Thứ tư, bổ sung loại trừ trường hợp bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh hoặc lý do chính đáng khác mà người làm chứng không thực hiện được việc công chứng hoặc chứng thực di chúc miệng vào khoản 5 Điều 630 BLDS năm 2015.
Thứ sáu, đối với di chúc miệng sau đó đã được người làm chứng thực hiện việc công chứng, chứng thực theo quy định thì không nên quy định bị mặc nhiên huỷ bỏ theo quy định tại Điều 629 BLDS năm 2015, mà chỉ huỷ bỏ khi có ý chí của người lập di chúc.
Thứ bảy, qua việc giải quyết vụ án tranh chấp thừa kế tại Vụ án thứ ba nêu trên, nhận thấy Tòa án căn cứ vào văn bản rút di chúc để không công nhận di chúc có người làm chứng và được chứng thực trước đó. Do vậy, cần có quy định về hình thức, thủ tục liên quan đến việc rút hoặc hủy bỏ di chúc đã được công chứng, chứng thực.
Thứ tám, qua việc giải quyết một số vụ án liên quan đến di chúc bị Tòa án tuyên vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức nêu trên, nhận thấy khi việc trích trả công sức cho người quản lý di sản khi chia di sản thừa kế còn không thống nhất trong thực tiễn giải quyết tranh chấp. Theo tác giả, việc trích trả công sức cho người quản lý di sản là cần thiết nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của người quản lý di sản trong việc tôn tạo, duy trì giá trị của di sản. Do “công sức quản lý di sản” không đồng nghĩa với “chi phí bảo quản di sản” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 618 BLDS năm 2015, nên bổ sung quy định về quyền của người quản lý di sản là “Được thanh toán chi phí bảo quản di sản, trích trả công sức quản lý di sản”. Bên cạnh đó, cần có hướng dẫn về cách thức, định mức trích trả như thế nào, ưu tiên trích trả bằng hiện vật hay trị giá bằng tiền… để thống nhất trong việc áp dụng pháp luật khi giải quyết tranh chấp./.
                                       Bùi Thị Nhuần
VKSND huyện Kim Thành
 
CHUYÊN MỤC CHÍNH
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây