Tìm hiểu việc tuyên truyền, vận động bầu cử Trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dâ
Thứ năm - 28/04/2016 22:16
Việc tuyên truyền, vận động bầu cử được quy định tại Chương VI (từ Điều 62 đến Điều 68) Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, trong đó quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử trong phạm vi cả nước; nguyên tắc vận động bầu cử; thời gian tiến hành vận động bầu cử; những hành vi bị cấm khi vận động bầu cử; các hình thức vận động bầu cử; về các hội nghị tiếp xúc cử tri; về việc vận động bầu cử thông qua phương tiện thông tin đại chúng.
Về công tác thông tin, tuyên truyền, vận động bầu cử: Luật quy định trách nhiệm của Hội đồng bầu cử quốc gia chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử trong phạm vi cả nước; Ủy ban bầu cử các cấp chỉ đạo thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, vận động bầu cử và giải quyết khiếu nại, tố cáo về vận động bầu cử ở địa phương. Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri cho người ứng cử đại biểu Quốc hội. Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri cho người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm phối hợp với Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp trong việc tổ chức Hội nghị tiếp xúc cử tri cho người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 62).
Về nguyên tắc vận động bầu cử: ngoài nguyên tắc vận động bầu cử được tiến hành dân chủ, công khai, bình đẳng, đúng pháp luật, bảo đảm trật tự xã hội và nguyên tắc các tổ chức phụ trách bầu cử và thành viên của các tổ chức này không được vận động cho người ứng cử. Luật bổ sung nguyên tắc người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử nào thực hiện quyền vận động bầu cử ở đơn vị bầu cử đó (Điều 63).
Về thời gian tiến hành vận động bầu cử: Luật quy định rõ thời gian được bắt đầu từ ngày công bố danh sách chính thức những người ứng cử (theo quy định là chậm nhất 25 ngày trước ngày bầu cử) và kết thúc trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ (Điều 64).
Về hình thức vận động bầu cử: Luật quy định cụ thể hai hình thức là vận động bầu cử thông qua Hội nghị cử tri do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức và vận động bầu cử thông qua phương tiện thông tin đại chúng. Việc vận động ứng cử thông qua phương tiện thông tin đại chúng: Người ứng cử đại biểu Quốc hội trình bày với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội khi trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương nơi mình ứng cử và trên trang thông tin điện tử về bầu cử đại biểu Quốc hội của Hội đồng bầu cử quốc gia; Người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân trình bày với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân khi trả lời phóng viên trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương và trên trang thông tin điện tử về bầu cử của Uỷ ban bầu cử (nếu có) (điều 67).
Luật cũng quy định các hành vi bị cấm trong vận động bầu cử đó là: (1) Lợi dụng vận động bầu cử để tuyên truyền trái với Hiến pháp và pháp luật hoặc làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền, lợi ích hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân khác; (2) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng phương tiện thông tin đại chúng trong vận động bầu cử; (3) Lợi dụng vận động bầu cử để vận động tài trợ, quyên góp ở trong nước và nước ngoài cho tổ chức, cá nhân mình; (4) Sử dụng hoặc hứa tặng, cho, ủng hộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất để lôi kéo, mua chuộc cử tri (Điều 68)./.