Bất cập trong việc tính tiền sự trong thực tiễn khi giải quyết các vụ án hình sự

Thứ năm - 30/05/2024 05:52
Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì các trường hợp được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính để làm xác định tiền sự gồm: Thứ nhất: cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo. Thứ hai: cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính nếu trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác (khác quyết định xử phạt cảnh cáo). Thứ ba: cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính nếu hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.
Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt hành chính được quy định tại Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính: Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định, quá thời hạn này thì không thi hành quyết định đó nữa, trừ trường hợp quyết định xử phạt có hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả thì vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện thuộc loại cấm lưu hành, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp cần thiết để bảo vệ môi trường, bảo đảm giao thông, xây dựng và an ninh trật tự, an toàn xã hội; trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn.
Trong thực tiễn rất nhiều trường hợp bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng không thi hành sau đó lại tiếp tục vi phạm. Việc có xem xét xử lý hình sự hay không vẫn còn có một số vướng mắc do chưa có văn bản hướng dẫn về việc “cố tình trốn tránh, trì hoãn” của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Về vấn đề này có 2 quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: Người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã gửi (giao) quyết định xử phạt đúng theo quy định, người bị xử phạt phải có trách nhiệm chấp hành quyết định này trong thời hạn 10 ngày, hoặc thời hạn ghi trong quyết định kể từ khi nhận quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, người bị xử phạt vẫn chưa nộp tiền phạt hoặc họ đã được xác minh là không có tài sản để thi hành nhưng không có đơn xin miễn, giảm thi hành quyết định xử phạt hành chính là do họ đã trốn tránh, trì hoãn việc thi hành quyết định. Do đó, vẫn xem xét người này là có tiền sự.
Quan điểm thứ hai: Người có thẩm quyền xử phạt đã ra quyết định xử phạt có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc chấp hành quyết định xử phạt của cá nhân, tổ chức bị xử phạt và thông báo kết quả thi hành xong cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính của Bộ tư pháp, cơ quan tư pháp địa phương. Đồng thời để đảm bảo quyết định hành chính được thi hành nghiêm túc thì cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định cưỡng chế nếu người bị xử phạt vi phạm hành chính không tự nguyện thi hành theo Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Như vậy, nếu hết thời hạn quy định mà người bị xử phạt không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và người hoặc cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính không có bất kỳ biện pháp nào buộc người bị xử phạt phải chấp hành quyết định đó thì không thể nói người bị xử phạt cố ý trốn tránh, trì hoãn. Do đó, không có căn cứ để áp dụng khoản 2 Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính đối với họ để tính thời hiệu thi hành quyết định kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn.
Liên quan về nội dung này, tại Công văn giải đáp số 5887/VKSTC-V14 ngày 05/12/2019 về việc giải đáp một số khó khăn, vướng mắc của VKSND tối cao đã trả lời:  Khoản 2 Điều 73 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Người có thẩm quyền xử phạt đã ra quyết định xử phạt có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc chấp hành quyết định xử phạt của cá nhân, tổ chức bị xử phạt và thông báo kết quả thi hành xong quyết định cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính của Bộ Tư pháp, cơ quan tư pháp địa phương”. Trường hợp người bị xử phạt vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt và không thuộc các trường hợp hoãn thi hành quyết định phạt tiền; giảm, miễn tiền phạt theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì phải bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 86, 87 và 88 Luật này. Do vậy, cá nhân, tổ chức bị xử phạt chỉ bị coi là cố tình trốn tránh, trì hoãn việc chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khi đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định pháp luật ….. mà vẫn không thi hành; đồng thời, cố tình tìm cách trốn tránh, trì hoãn việc chấp hành quyết định đó như tẩu tán tài sản, gây khó khăn cho việc thi hành... Nếu hết thời hạn quy định người bị xử phạt không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt không có bất kỳ biện pháp nào buộc người bị xử phạt phải chấp hành quyết định đó thì không thuộc trường hợp người bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành quyết định.
Công văn số 4962/VKSTC-V14 ngày 15/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao giải đáp khó khăn vướng mắc liên quan đến quy định này cũng hướng dẫn: Khoản 1 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định “Cá nhân, tổ chức bị xử phạt hành chính, nếu trong thời hạn …………hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt hành chính”; Điều 74 Luật xử phạt vi phạm hành chính quy định…. 1. Thời hiệu xử phạt vi phạm  hành chính là 01 năm kể từ ngày ra quyết định…….” Theo quy định trên đối với trường hợp người bị xử phạt vi phạm hành chính không thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (không thuộc trường hợp cố tình trốn tránh, trì hoãn, việc không thi hành quyết định xử phạt hành chính là do lỗi của cơ quan ra quyết định xử phạt hành chính không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt) mà hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt hành chính thì theo Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính xác định người đó được coi là chưa bị xử phạt hành chính nếu trong thời hạn 1 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt hành chính mà người đó không tái phạm.
Thực tế khi áp dụng các quy định này đã tạo nên sự bất cập, không công bằng trong áp dụng và xử lý các trường hợp người phạm tội cũng từng bị xử phạt hành chính trong cùng một thời điểm. Ví dụ: Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B ngày 01/12/2021 đều bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, hình thức phạt tiền, sau khận quyết định xử phạt đến ngày 20/4/2023 A chấp hành nộp phạt theo quy định, Nguyễn Văn B sau khi nhận được quyết định xử phạt vẫn sinh sống tại địa phương, biết phải nộp phạt nhưng không nộp phạt, tuy nhiên không được cơ quan nào đôn đốc hoặc ra quyết định cưỡng chế buộc B phải chấp hành. Ngày 20/12/2023, Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn A tiếp tục thực hiện hành vi Đánh bạc với số tiền đánh bạc là 1.000.000 đồng. Nguyễn Văn A bị khởi tố về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự (do ngày 20/4/2023 A nộp phạt đến ngày 20/4/2024 mới được coi là chưa có tiền sự) còn Nguyễn Văn B do tiền sự về hành vi đánh bạc đã hết thời hiệu, 1 năm từ ngày hết thời hiệu là ngày 01/12/2023 thì B được coi là chưa bị xử phạt (tổng 2 năm kể từ ngày ra quyết định) nên Nguyễn Văn B chỉ bị xử phạt hành chính. Như vậy trong trường hợp này A vẫn còn tiền sự nên sẽ bị khởi tố, ngẫu nhiên B được hưởng thời hiệu và được xác định không coi là đã xử phạt hành chính theo Điều 7, Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính (1 năm từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt hành chính) nên B chỉ bị xử phạt hành chính.
Quan điểm tác giả là quan điểm thứ 2, tuy nhiên vẫn còn những vướng mắc bất cập như đã nêu. Hiện nay, tại Bộ luật Hình sự năm 2015, có 64 điều luật quy định cấu thành tội phạm “đã bị xử phạt vi phạm hành chính...mà còn vi phạm” nhưng thực tiễn áp dụng tại các cơ quan tố tụng vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau. Do vậy, để giải quyết những bất cấp trên đề nghị Liên ngành Trung ương cần thiết nhanh chóng sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật nhằm đảm bảo việc đánh giá, áp dụng tiền sự làm căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can, không làm oan, sai, bỏ lọt tội phạm, đảm bảo cho pháp luật được thực thi thống nhất và hiệu quả cũng như đảm bảo được sự công bằng trong xã hội.
                                                  Vũ Thị Lệ
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây