Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong luật VKSND năm 2014

Thứ ba - 26/05/2015 21:38
Ngày 24 tháng 11 năm 2014, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân số 63/2014/QH13 (sau đây gọi tắt là Luật tổ chức VKSND năm 2014).
Theo đó, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại chương I của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Thứ nhất, Luật tổ chức VKSND năm 2014 khẳng định rõ địa vị pháp lý của VKSND là thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà nước, có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Cụ thể, tại Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định:
“1. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.”
Luật đã làm rõ vị trí, vai trò của VKSND trong mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước theo tư tưởng của Hiến pháp năm 2013. Với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND được xác định là thiết chế kiểm soát hoạt động tư pháp, có trách nhiệm phối hợp, đồng thời, kiểm sát chặt chẽ, thường xuyên đối với cơ quan điều tra, tòa án, cơ quan thi hành án và các cơ quan khác trong việc thực hiện hoạt động tư pháp. Mặt khác, Luật cũng quy định rõ các cơ chế giám sát hoạt động của VKSND thông qua các thiết chế dân chủ đại diện (như Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân), thông qua dân chủ trực tiếp và các tổ chức chính trị - xã hội (khoản 1 Điều 9 và Điều 10); đồng thời, quy định cơ chế kiểm soát trở lại của cơ quan điều tra, tòa án, cơ quan thi hành án và các cơ quan khác có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp đối với việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND (khoản 2 Điều 9).
Thứ hai, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận về chức năng, nhiệm vụ của VKSND, bảo đảm thống nhất trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc xây dựng các đạo luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND trong thời gian tới như Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự…
- Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định rõ phạm vi, nội dung, mục đích của chức năng thực hành quyền công tố, khẳng định VKSND thực hành quyền công tố ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Thể chế hóa chủ trương của Nghị quyết 49-NQ/TW “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với điều tra”, Luật đã xác định vai trò, trách nhiệm của VKSND là cơ quan quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố; có quyền trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội; quyết định truy tố hoặc không truy tố bị can.
-  Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định rõ phạm vi, nội dung, mục đích của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
- Trên cơ sở nội dung của chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định rõ các lĩnh vực công tác thuộc chức năng thực hành quyền công tố, các lĩnh vực công tác thuộc chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp; làm rõ nội dung các khâu công tác thực hiện chức năng và bổ sung quy định về các công tác phục vụ thực hiện chức năng của VKSND (Chương II).
- Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã phân định các trường hợp VKSND thực hiện quyền kháng nghị hoặc quyền kiến nghị; đồng thời, quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết, trả lời kháng nghị, kiến nghị của VKSND, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả khi VKSND thực hiện các quyền này trên thực tế (Điều 5).
- Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã mở rộng thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND cả về loại tội và chủ thể thực hiện tội phạm. Theo Điều 20 của Luật, Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Cơ quan điều tra VKSQS trung ương có thẩm quyền điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, những người khác có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây