Giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn - một trong những điểm mới của bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
Chủ nhật - 29/05/2016 21:58
Ngày 25/11/2015, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIII đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự (Luật số 92/2015/QH13) và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được bố cục thành 10 phần, 42 chương, 517 điều, trong đó: giữ nguyên 63 điều; sửa đổi, bổ sung 350 điều; bổ sung mới 104 điều; bãi bỏ 07 điều. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung nhiều chương mới, trong đó có chương về thủ tục rút gọn, đây là một trình tự thủ tục mới trong tố tụng dân sự. Thủ tục rút gọn được quy định tại Phần thứ tư, gồm 2 chương 9 điều, từ Điều 316 đến Điều 324 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng được áp dụng để giải quyết vụ án dân sự có đủ điều kiện theo quy định với trình tự đơn giản so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thông thường, nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật. Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 317 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;
- Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng;
- Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.
Về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn: Trong thời hạn không quá 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn và mở phiên tòa xét xử trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định.
Về việc nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát để tham gia phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn: Sau khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn, Tòa án phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo hồ sơ vụ án; trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn: Các đương sự, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt tại phiên tòa. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử. Đương sự có quyền đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa.
Về thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án sơ thẩm của Tòa án theo thủ tục rút gọn:
+ Thời hạn kháng cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục rút gọn là 07 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án, quyết định được giao cho họ hoặc bản án, quyết định được niêm yết.
+ Thời hạn kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định.
Về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn: Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy từng trường hợp, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra một trong các quyết định sau: Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Về việc nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát để tham gia phiên tòa phúc thẩm theo thủ tục rút gọn: Sau khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn, Tòa án phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo hồ sơ vụ án; trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án.
Tuy nhiên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất hiện tình tiết mới sau đây làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường:
+ Phát sinh tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất do đó cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám định;
+ Cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các đương sự không thống nhất về giá;
+ Cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
+ Phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
+ Phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập;
+ Phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà cần phải thực hiện ủy thác tư pháp, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.
Trường hợp chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường thì thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường.