Một số điểm mới về tội cố ý gây thương tích theo quy định của BLHS 2015, BLTTHS 2015
Thứ sáu - 25/03/2016 05:52
Sau khi nghiên cứu, tôi xin trao đổi với đồng nghiệp về những điểm mới trong quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác được quy định tại Điều 104 trong Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 như sau:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.”
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.
Còn trong Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác được quy định tại Điều 134 như sau:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;
b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;
e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;
h) Có tổ chức;
i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;
m) Có tính chất côn đồ;
n) Tái phạm nguy hiểm;
o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
3. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 04 năm đến 07 năm.
4. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
5. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều này hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
6. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
7. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Như vậy, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được quy định rõ ràng cụ thể hơn so với Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Theo quy định của Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999, tội này chỉ gồm 4 khoản với định mức tỷ lệ thương tật được chia ra làm bốn mức là dưới 11%, từ 11% đến 30%, từ 31% đến 60%, trên 61% nhưng trong Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 tuy vẫn giữ nguyên việc chia định mức tỉ lệ thương tật nhưng tội này đã được chia ra làm 7 khoản với một số điểm mới sửa đổi và bổ sung để hoàn thiện hơn những chế định của pháp luật về tội này.
Trong khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 này so với khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự 1999 thì có thể nhận thấy đã quy định thêm hai điểm mới sau:
“b, Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
i, Lợi dụng chức vụ, quyền hạn”
Ngoài ra trong khoản này, đã đổi từ “Nhiều” thành “từ hai trở lên”, “trẻ em” đổi thành “Người dưới 16 tuổi”. Đây là bước cải tiến rõ rệt trong quy định của pháp luật nhằm phân định rõ những định nghĩa mà trước nay vẫn còn chung chung: “nhiều”, “trẻ em” để thực hiện được phải ban hành văn bản hướng dẫn nay đã được quy định cụ thể thành “từ hai trở lên” “người dưới 16 tuổi”. Chính quy định này giúp chúng ta có thể xác định rõ hành vi của người phạm tội tương ứng với điểu khoản nào của điều luật để áp dụng cho từng trường hợp phạm tội cụ thể.
Về khoản 2, khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999, nay đã được chia thành 4 khoản riêng biệt theo điều luật mới. Theo đó, mức khung hình phạt cũng được quy định rạch ròi không gộp chung lại như trước. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tố tụng như Tòa án, Viện kiểm sát có thể dễ dàng hơn trong việc định tội áp dụng mức hình phạt đối với người phạm tội. Thêm vào đó, quy định này cũng đã phân chia giới hạn giữa tỷ lệ thương tật với các tình tiết tăng nặng trong cấu thành tội phạm, không còn sự nhập nhằng như quy định cũ, rằng dù tỷ lệ thương tật thấp nhưng nếu có tình tiết tăng nặng thì vẫn quy đồng với mức tỷ lệ thương tật cao hơn.
Khoản 6 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 đã cụ thể hóa khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999. Theo đó, tình tiết định tính như “chết nhiều người” “đặc biệt nghiêm trọng khác” đã được quy định rõ thành từng điểm rõ ràng:
“a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.”
Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 có thêm quy định về trường hợp gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Đây là một điểm mới trong Bộ luật hình sự 2015 về tội này. Bởi vì đối với một người việc bị thương tích tại vùng mặt sẽ để lại di chứng về mặt tinh thần, khiến họ mặc cảm không hòa nhập với cộng đồng xã hội, cũng như để cho họ phải bị mang tiếng làm điều gì đó không đúng nên mới bị xảy ra hậu quả như vậy. Việc gây thương tích tại vùng mặt không chỉ xâm phạm đến thân thể mà còn xâm phạm đến mặt tinh thần.
Thêm vào đó, Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 còn quy định thêm một khoản mới về việc chuẩn bị phạm tội. Theo đó người chuẩn bị phạm tội này sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Ngoài ra, về vấn đề khởi tố vụ án hình sự đối với tội này của người bị hại thì tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) quy định:
“Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.”
Còn tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS 2015 thì quy định:
“1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.”
Như vậy tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã có quy định rõ ràng hơn so với khoản 1 Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Theo đó, tại Điều 155 BLTTHS 2015, “Người chưa thành niên” theo như Điều 105 BLTTHS 2003 đã được đổi thành “Người dưới 18 tuổi”. Và trong điều 155 BLTTHS 2015 còn có thêm quy định người đại diện của bị hại đã chết được quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Quy định này của BLTTHS 2015 đã hoàn thiện hơn, giúp cho việc bảo vệ bí mật đời tư và danh dự của người bị hại, đều là các tội ít nghiêm trọng nên có thể giải quyết bằng con đường hành chính, dân sự, giảm bớt việc giải quyết bằng việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Quy định về quyền nêu trên cho người bị hại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đã dành cho người bị hại quyền quyết định việc có yêu cầu xử lý hành vi phạm tội của người phạm tội hay không sau khi cân nhắc quyền lợi của mình giữa việc xử lý hành vi phạm tội với việc không xử lý hành vi phạm tội bằng vụ án hình sự. Với quy định này, lợi ích của người bị hại đã được ưu tiên trước lợi ích của xã hội khi xem xét xử lý hành vi phạm tội.
Hiện nay, có những hành vi phạm tội có dấu hiệu cấu thành tội phạm khoản 2 tội này nhưng người bị hại lại không đồng ý giám định thương tích nên đã gây khó khăn cho công tác đấu tranh trong chống tội phạm. Sau khi làm rõ và bắt giữ đối tượng về hành vi cố ý gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe cho người khác, không phải vụ án nào cũng xử lý nghiêm được đối tượng gây án vì nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân là người bị hại từ chối giám định hay giám định lại thương tích. Không có kết quả giám định hoặc giám đinh lại thương tích của người bị hại thì việc truy tố đối tượng gây án sẽ rất khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh chống tội phạm.
Việc người bị hại từ chối giám định hoặc giám định lại thương tích có nhiều nguyên nhân. Có trường hợp do giữa người bị hại và đối tượng gây án có mối quan hệ gia đình, họ hàng (anh em ruột, vợ chồng…) hoặc mối quan hệ hàng xóm láng giềng, nên người bị hại đã từ chối giám định thương tích. Có vụ cố ý gây thương tích gây hậu quả nghiêm trọng liên quan đến ổ nhóm mang tính chất xã hội đen, đâm thuê, chém mướn, … nhưng do người gây án và người bị hại đã ngầm thỏa thuận, tự hòa giải bồi thường hoặc người bị hại, người thân của họ bị đối tượng gây án đe dọa, mua chuộc…, họ lo sợ cho tính mạng của bản thân và gia đình nên đã không hợp tác với cơ quan điều tra mà tự thỏa thuận bồi thường. Đồng thời, người bị hại viết đơn từ chối giám định thương tích hoặc kéo dài thời gian đi giám định thương tích để thoái thác, gây khó khăn cho việc xử lý của cơ quan điều tra. Tuy nhiên hiện tại trong Bộ luật TTHS 2015 tại khoản 2 Điều 127 đã có quy định việc dẫn giải có thể áp dụng đối với người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. Quy định mới này sẽ giúp cho việc tiến hành tố tụng của CQĐT, VKS được dễ dàng hơn.
Có thể khẳng định Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự lần này đã sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe người khác trong hình sự, giúp cho việc thực thi pháp luật được chính xác hơn trong việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.
Trên đây là những điểm mới về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe người khác, xin trao đổi cùng các đồng nghiệp để nghiên cứu, áp dụng thực hiện trong công tác điều tra, truy tố và xét xử.