Trong trường hợp nào thì cần xác định hàm lượng chất ma túy
Thứ tư - 24/12/2014 03:43
Ngày 17/9/2014 TANDTC có công văn số 234 với nội dung: Trích dẫn một phần của tiểu mục 1.4, mục 1, phần I Thông tư liên tịch số 17: “ Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất.” và đã hướng dẫn: TAND các cấp cần quán triệt và triển khai thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17 nêu trên về việc bắt buộc phải giám định hàm lượng của các chất ma túy trong các chất trong các chất thu giữ nghi là chất ma túy, để lấy nó làm căn cứ kết tội các bị cáo theo qui định tại chương XVIII “ Các tội phạm về chất ma túy” của BLHS năm 1999.
Sau công văn này, rất nhiều TAND cấp huyện, cấp tỉnh đã trả lại hồ sơ cho VKSND cùng cấp để trưng cầu giám định hàm lượng các chất ma túy ( trong đó có các vụ án theo Điều 194 BLHS- Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy ); có Tòa án còn căn cứ vào hàm lượng để tính lại trọng lượng chất ma túy bị truy tố và chuyển xét xử bị cáo xuống khung hình phạt thấp hơn. Những việc trên làm cho nhiều người băn khoăn và cho rằng cần xem xét lại.
Thông tư liên tịch số 17, là một thông tư rất đầy đủ, khoa học, thể hiện trí tuệ và sự tập chung cao của những người soạn thảo và ban hành văn bản. Qua đó, đã xác định khá rõ các trường hợp cần xác định hàm lượng chất ma túy:
Qui định tại điểm a, b tiểu mục 1.1, mục 1, phần I
“a) Đối với các chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch (như dung dịch thuốc phiện, dung dịch hêrôin dùng để tiêm, chích) hoặc chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng để tiện cho việc sử dụng thì không coi toàn bộ dung dịch này là chất ma túy ở thể lỏng mà cần xác định hàm lượng moocphin trong dung dịch để tính trọng lượng của chất ma túy đó;
b) Đối với xái thuốc phiện thì không coi là nhựa thuốc phiện mà phải xác định hàm lượng moocphin trong xái thuốc phiện để tính trọng lượng của thuốc phiện.”
Qui định tại tiểu mục 1.4, mục 1, phần I
“1.4. Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất. Nếu chất được giám định không phải là chất ma túy hoặc không phải là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, nhưng người thực hiện hành vi ý thức rằng chất đó là chất ma túy hoặc chất đó là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, thì tùy hành vi phạm tội cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người đó theo tội danh quy định tại khoản 1 của điều luật tương ứng đối với các tội phạm về ma túy.
Trường hợp một người biết là chất ma túy giả nhưng làm cho người khác tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao đổi… thì người đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm về ma túy mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 BLHS, nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác nữa trong cấu thành tội phạm của tội này.”
Qui định tại tiểu mục 3.5, mục 3, phần II
“3.5. Chất gây nghiện, chất hướng thần là chất ma túy; còn thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là để chữa bệnh (chỉ chứa một hàm lượng nhất định chất ma túy) và được quản lý theo quy chế quản lý dược phẩm của Bộ Y tế. Người nào không thuộc đối tượng quy định tại Điều 201 BLHS mà vi phạm trong việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần nhằm mục đích kinh doanh thuốc chữa bệnh hoặc để chữa bệnh thì bị xử lý hành chính hoặc thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng khác không phải là tội phạm về ma túy (ví dụ: tội kinh doanh trái phép, tội buôn lậu…). Trường hợp sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần trái phép nhằm thỏa mãn nhu cầu về sử dụng trái phép chất ma túy cho mình hoặc cho người khác thì bị xử lý về tội phạm ma túy tương ứng (nếu thỏa mãn điều kiện về trọng lượng chất ma túy theo quy định của pháp luật).”
Đó chính là những trường hợp cần phải xác định hàm lượng để xác định bị can bị cáo có phạm tội hay không? Tính chất mức độ của hành vi phạm tội thế nào? Ví dụ bị can định pha loãng một gói Hê rô in vào nước để sử dụng; nếu bị can đã pha loãng thì bắt buộc cần phải giám định hàm lượng Heroin có trong dung dịch pha loãng rồi tính ra trọng lượng để có căn cứ xác định bị can phạm có tội tàng trữ trái phép chất ma túy hay không; nếu bị can chưa kịp pha thì cơ quan tố tụng chỉ cần giám định xác định gói chất đó có chất hê rô in và trọng lượng từ 0,1g trở lên để xử lý bị can về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là được.
Đối với Qui định tại tiểu mục 1.4, mục 1, phần I thì cần hiểu là việc xác định hàm lượng ma túy là bắt buộc trong trường hợp chất bị thu giữ nghi là ma túy, mà nếu thiếu hàm lượng thì không thể có căn cứ để xử lý bị can…Ví dụ: cơ quan pháp luật quản lý được của một người một gói bột trắng, họ khai đó là bột sắn dây. Trong trường hợp này nếu không xác định gói bột trắng này có một hàm lượng ma túy đáng kể thì khó mà buộc tội được đối với họ.
Qua đây, thì thấy Văn bản số 234 nêu trên của TANDTC trích dẫn chưa đầy đủ tiểu mục 1.4 như đã nêu trên. Chính điều này cũng dẫn đến cách hiểu không đầy đủ là: Trong mọi trường hợp…đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy.
Việc hiểu theo cách trên là không phù hợp với thực tế là các cơ quan pháp luật trong cả nước đã xử lý rất nhiều vụ án, nhất là các vụ án theo qui định tại Điều 194 BLHS- Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy mà không cần xác định hàm lượng chất ma túy vì điều đó là không cần thiết hoặc không thể xác định được( chẳng hạn, ma túy được xác định trong các vụ án truy xét thường buộc tội trên cơ sở bánh, số g, kg ma túy).
Về mặt lý luận thì tội phạm là một thể thống nhất giữa ý thức chủ quan và hành vi khách quan, hầu hết các tội phạm về ma túy, nhất là các tội phạm theo qui định tại Điều 194 BLHS không có ý thức chủ quan về hàm lượng ma túy, vì vậy pháp luật không cần phải xử lý theo mức độ về hàm lượng. Người phạm tội chỉ suy nghĩ và hành động theo loại, trọng lượng chất ma túy nên pháp luật chỉ xử lý theo loại và trọng lượng ma túy. Thực tế là như vậy, chẳng hạn hầu như trong các vụ án Mua bán trái phép chất ma túy, các bị can không hỏi nhau bánh, gói Heroin này có hàm lượng bao nhiêu mà chỉ hỏi có trọng lượng bao nhiêu, giá bao nhiêu.
Vì những nội dung trên và để tránh xảy ra vướng mắc trong quá trình xử lý tội phạm theo qui định tại chương XVIII “ Các tội phạm về chất ma túy” của BLHS năm 1999, đề nghị VKSNDTC, TANDTC, BCA nhanh chóng có văn bản hướng dẫn đầy đủ và cụ thể liên quan tới việc giám định hàm lượng chất ma túy theo hướng chỉ ap dụng đối với các trường hợp nêu trên. Đây là vấn đề phức tạp, rất mong đồng nghiệp cùng tham gia trao đổi để có nhận thức đúng, tham mưu cho ngành thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ.