Vai trò của Viện kiểm sát trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ

Thứ ba - 28/09/2021 05:23

Bộ luật tố tụng  dân sự (BLTTDS) năm 2015 có sự bổ sung quan trọng khi quy định về thẩm quyền xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát. Nếu như trong BLTTDS năm 2004 và BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 chỉ quy định Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm thì BLTTDS năm 2015 đã có sự sửa đổi đáng kể, với quy định “Viện kiểm sát thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc thực hiện thầm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm". Quy định này trước hết xuất phát từ quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTDS.

Tại Điều 58 BLTTDS quy định:

"1. Khi được Viện trưởng Viện kiểm sát phân công thực hiện kiểm sát viêc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, Kiểm sát viên có nhiệm vụ, quyền sau đây:

1…

3. Nghiên cứu hồ sơ vụ việc, yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoàn 6 Điều 97 của Bộ luật này".

Sự sửa đổi, bổ sung này là rất phù hợp, bởi lẽ, trên thực tế trong hồ sơ của Tòa án có đầy đủ các chứng cứ do đương sự cung cấp, Viện kiểm sát khi cần thiết hoàn toàn có quyền được xem xét hoặc nghiên cứu hồ sơ đó để thực hiện thẩm quyền kháng nghị. Việc quy định đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân vừa phải cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Toà án, vừa phải cung cấp cho Viện kiểm sát là không cần thiết và gây phiền hà cho đương sự. Do vậy, thay vì quy  định như trước đây là Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự cung cấp thì BLTTDS năm 2015 quy định Viện kiểm sát có quyền trực tiếp tự mình thu thập thông qua quyền yêu cầu đương sự cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ cung cấp chứng cứ (khoản 4 Điều 106 BLTTDS năm 2015). Đây là bước thay đổi về tư duy pháp luật theo hướng dân chủ hơn và hiệu quả hơn. 

Qua thực tiễn công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án Kiện đòi tài sản (tài liệu do Viện kiểm sát thu thập là 1 trong những căn cứ để kháng nghị phúc thẩm): 

Nội dung vụ án: Anh D và chị N là vợ chồng nhưng hiện đã ly hôn. Trong thời kỳ hôn nhân, anh D và chị N có khối tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất số 366, tờ bản đồ số 9, diện tích 90m2 ở thôn Sồi Cầu, xã Thái Học, huyện Bình Giang, trên đất có nhà 2 tầng bê tông cốt thép diện tích xây dựng 55m2 . Ngày 11/01/2013 anh D, chị N ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất (Hợp đồng số 403); ngày 14/01/2013 ký Hợp đồng sửa đổi, bổ sung Hợp đồng số 403 để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ hiện tại và nghĩa vụ trả nợ phát sinh trong tương lai của Công ty TNHH sản xuất và thương mại K đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Cẩm Giàng, Hải Dương, trong đó có khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 12KA 1401/HĐTD là 391.000.000 đồng. Theo nội dung các Hợp đồng thế chấp đã ký kết thì tài sản thế chấp của anh D, chị N là: Thửa đất số 366, tờ bản đồ số 9, diện tích 90m2 ở thôn Sồi Cầu, xã Thái Học, huyện Bình Giang, trên đất có nhà 2 tầng bê tông cốt thép diện tích xây dựng 55m2 . Năm 2018, do Công ty K không có khả năng thanh toán khi đến hạn trả nợ nên Ngân hàng nông nghiệp đã thu giữ, xử lý tài sản thế chấp là nhà, đất của anh D, chị N để thu hồi nợ. Ngày 16/5/2018, Ngân hàng nông nghiệp và Công ty TNHH bán đấu giá tài sản Thắng Lợi  ký Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản số 63 với nội dung: Ngân hàng nông nghiệp ủy quyền cho Công ty Thắng Lợi đấu giá tài sản quyền sử dụng thửa đất số 366, tờ bản đồ số 9, diện tích 90m2, có GCNQSDĐ số AM454039  do UBND huyện Bình Giang cấp ngày 03/4/2008 cho anh D, chị N; tài sản gắn liền với đất là nhà 2 tầng, diện tích xây dựng 110m2. Ngày 13/8/2018, Công ty Thắng Lợi tổ chức cuộc đấu giá tài sản và anh H là người trúng đấu giá với giá đã trả là 743.150.000 đồng. Ngày 24/8/2018, anh H được UBND huyện Bình Giang cấp GCNQSDĐ  nhưng anh D, chị N không giao tài sản trúng đấu giá là nhà, đất cho anh H (hiện anh D vẫn đang ở và quản lý khối tài sản trên). Anh H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh D, chị N trả lại tài sản thuộc quyền sử dụng hợp pháp của anh H.

Bản án dân sự số 01/2021/DS-ST ngày 16/4/2021 “Tranh chấp Kiện đòi sản" của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh H, buộc anh D phải hoàn trả cho anh H tài sản là: Thửa đất số 366, tờ bản đồ số 09, diện tích 90m2, địa chỉ thửa đất tại thôn Sồi, xã Thái Học, huyện Bình Giang (đã được UBND huyện Bình Giang cấp GCNQSDĐ số CN 884078, ngày 24/8/2018 cho anh H) và 01 ngôi nhà 2 tầng xây trên thửa đất trên.                                                     

Ngày 19/4/2021, VKSND huyện Bình Giang đã cùng chính quyền xã Thái Học, trực tiếp đến nhà anh D làm việc. Đoàn đã tiến hành xem xét, đo đạc kích thước thửa đất, ngôi nhà hai tầng trên đất và ghi nhận quan điểm của anh D đối với kết quả xét xử của Tòa án,  lời trình bày của anh D đối với bức tường với các hộ giáp ranh hai bên.

+ Xem xét, đo đạc hiện trạng ngôi nhà 2 tầng: Kích thước chiều dài là 21,5m, chiều rộng là 4,5m; Diện tích xây dựng 1 tầng là 4,5m x 21,5m = 96,75m2, tổng diện tích xây dựng cả 2 tầng là  96,75m2 x 2 = 193,5m2;

+ Xem xét, đo đạc hiện trạng thửa đất: Kích thước chiều dài là 24,5m, chiều rộng là 4,5m; diện tích thửa đất là 24,5m x 4,5m = 110, 25m2.

- Bản án sơ thẩm tuyên: Buộc anh D phải trả anh H thửa đất số 366 mà anh H đã được UBND huyện Bình Giang cấp GCNQSDĐ số CN 884078, ngày 24/8/2018 và ngôi nhà 2 tầng xây trên thửa đất. kích thước 2 cạnh chiều dài thửa đất lần lượt là 20m và 20,75m. Bản án sơ thẩm căn cứ vào Hợp đồng mua tài sản đấu giá để xác định quyền sở hữu nhà của anh H, mà theo hợp đồng này thì diện tích xây dựng nhà 2 tầng  là 110m2, do vậy ngôi nhà bản án buộc anh D trả anh H có diện tích xây dựng là 110m2.

Đối chiếu với kết quả làm việc của Viện kiểm sát với phần Quyết định của bản án sơ thẩm thì thấy: hiện trạng ngôi nhà 2 tầng có chiều dài là 21,5m, dài hơn thửa đất mà bản án sơ thẩm giao cho anh H; hiện trạng diện tích xây dựng nhà 2 tầng là 193,5m2, rộng hơn diện tích xây dựng bản án sơ thẩm giao cho anh H là 110m2.

 Chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ về tài sản thế chấp là ngôi nhà hai tầng còn nhiều mâu thuẫn nhưng Thẩm phán chưa thu thập tài liệu để làm rõ mâu thuẫn dẫn đến việc đánh giá chứng cứ chưa khách quan.Viện KSND huyện Bình Giang kháng nghị đối với Bản án sơ thẩm dân sự số 01/2021/DS-ST ngày 16/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang theo thủ tục phúc thẩm. Đề nghị TAND tỉnh Hải Dương đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, áp dụng Điều 310 BLTTDS hủy bản án sơ thẩm dân sự số 01/2021/DSST ngày 16/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang.

                                                                                           Phạm Văn Ngoan
VKSND huyện Bình Giang

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây